BỘ TƯ PHÁP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 425/QĐ-BTP |
Hà Nội, ngày 19 tháng 2 năm 2013 |
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Căn cứ Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;
Căn cứ Nghị định Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ quy định quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước;
Căn cứ Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV ngày 17 tháng 01 năm 2006 của liên Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP;
Căn cứ Thông tư liên tịch số 71/2007/TTLT-BTC-BNV ngày 26 tháng 6 năm 2007 của liên Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ sửa đổi Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị quản lý hành chính thuộc Bộ Tư pháp theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ về quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước” ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng Bộ, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính, Thủ trưởng các đơn vị quản lý hành chính thuộc Bộ chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận: |
BỘ TRƯỞNG |
XÂY
DỰNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ CỦA CÁC ĐƠN VỊ QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH THUỘC BỘ TƯ PHÁP THEO QUY ĐỊNH TẠI NGHỊ ĐỊNH SỐ 130/2005/NĐ-CP NGÀY 17
THÁNG 10 NĂM 2005 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM
VỀ SỬ DỤNG BIÊN CHẾ VÀ KINH PHÍ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
(Ban hành kèm theo Quyết định số 452/QĐ-BTP ngày 19 tháng 2 năm 2013 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp)
I. Cơ sở chính trị, pháp lý của việc xây dựng Đề án
Xuất phát từ chủ trương, quan điểm về việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước, để thế chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 17 tháng 10 năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ - CP quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; ngày 17 tháng 01 năm 2006, liên Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 03/2006/TTLT-BTC - BNV hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ - CP và Thông tư liên tịch số 71/2007/TTLT - BTC-BNV ngày 26 tháng 6 năm 2007 sửa đổi Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV, theo đó để một đơn vị thực hiện chế độ tự chủ về tài chính và biên chế, đơn vị phải đảm bảo một số điều kiện nhất định, cụ thể:
1. Cấp trên giao biên chế ổn định cho đơn vị hành chính cấp dưới trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
2. Cấp trên phải ban hành các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc khi thực hiện chế độ tự chủ.
3. Đối với các đơn vị dự toán, để thực hiện chế độ tự chủ phải xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế quản lý tài sản công để có căn cứ chi tiêu, sử dụng kinh phí, tài sản được giao, đồng thời phải xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của từng bộ phận, cá nhân trong đơn vị.
1. Những kết quả đạt được
Ngay sau khi có Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ, từ năm ngân sách 2006, Bộ Tư pháp đã thực hiện việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí cho 100% các đơn vị dự toán thuộc và trực thuộc Bộ (tổng cộng 769 đơn vị dự toán, trong đó 11 đơn vị dự toán thuộc Bộ và 758 cơ quan Thi hành án dân sự địa phương). Kết quả qua 6 năm thực hiện cho thấy, chế độ tự chủ tại Bộ Tư pháp đã đạt được một số kết quả đáng kể. Cụ thể:
1.1. Cơ chế tự chủ tài chính đã góp phần đẩy mạnh công tác công khai dân chủ trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính, có sự đồng thuận cao trong việc quản lý, sử dụng kinh phí được giao, tạo tâm lý phấn khởi cho cán bộ, công chức và nâng cao ý thức trách nhiệm, thực hiện quyền giám sát của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ và thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
1.2. Trong công tác quản lý kinh phí: Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính và biên chế theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP đã từng bước hạn chế tình trạng cơ quan chủ quản cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cơ quan cấp dưới; sử dụng kinh phí đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả hơn, không còn tình trạng “chạy” kinh phí còn dư cuối năm để chi tiêu cho hết. Nhìn chung, qua thực hiện khoán chi, các đơn vị đã chủ động rà soát các khoản chi, nội dung chi phù hợp, công khai, minh bạch; gắn tinh thần tiết kiệm của từng cá nhân đối với tập thể, nâng cao tính tự giác; đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị tốt hơn. Từ đó thúc đẩy việc sắp xếp, bố trí bộ máy tinh gọn, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng lao động, kinh phí quản lý hành chính, nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả sử dụng kinh phí hành chính. Các đơn vị đã rà soát các nhiệm vụ được giao để lập dự toán tương đối sát với thực tế, tránh chồng chéo, lãng phí giữa các đơn vị, các nhiệm vụ. Để quản lý hiệu quả kinh phí được giao, các đơn vị cũng đã chủ động xây dựng Quy chế làm việc tạo ra lề lối làm việc khoa học, hiệu quả, phát huy khả năng của các cán bộ, công chức và đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng làm việc, hạn chế tình trạng lãng phí về thời gian, công sức và tài chính.
1.3. 100% đơn vị dự toán đã xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế đươc quy định cụ thể các nội dung chi, mức chi, được đưa ra thảo luận và bàn bạc công khai trước toàn thể cán bộ, công chức trong đơn vị trước khi ký ban hành nên việc chi tiêu, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí được giao thuận lợi. Hàng năm, trên cơ sở kết quả thực hiện và những biến động của chính sách, chế độ, giá cả thị trường, các đơn vị dự toán đều xem xét, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy chế cho chi tiết hơn, đầy đủ hơn, gắn lợi ích của người lao động vào việc thực hiện nhiệm vụ. Từ đó, thu nhập tăng thêm của cán bộ, công chức cũng được cao hơn.
1.4. Hầu hết các đơn vị đã xây dựng Quy chế quản lý tài sản công; Quy chế quy định rõ quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong việc quản lý, sử dụng, sửa chữa, bảo hành tài sản nhằm mang lại hiệu quả thiết thực, nhất là tiết kiệm kinh phí.
1.5. Trong công tác sử dụng kinh phí, các đơn vị đã được giao quyền chủ động trong việc sử dụng kinh phí được giao nhằm đảm bảo mục tiêu sử dụng kinh phí hiệu quả, tiết kiệm. Từ khoản kinh phí tiết kiệm được, các đơn vị đã chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức trong đơn vị, chi phúc lợi vào các ngày lễ, tết, chi tham quan, nghỉ mát và từng bước nâng cao đời sống cho cán bộ, công chức, và người lao động.
2. Những hạn chế, khó khăn vướng mắc, nguyên nhân và các giải pháp khắc phục
2.1. Những hạn chế, khó khăn vướng mắc
a) Qua theo dõi tình hình thực hiện việc chi trả thu nhập tăng thêm của các đơn vị trong các năm qua cho thấy việc chi trả thu nhập tăng thêm chưa thực sự công bằng, khoản chi này có sự chênh lệch không nhỏ giữa các đơn vị trong Bộ, có đơn vị một năm chỉ chi thu nhập tăng thêm 1 đến 2 tháng lương nhưng cũng có những đơn vị chi thu nhập tăng thêm từ 7 đến 9 tháng lương, mức chi thu nhập tăng thêm này không đánh giá được mức độ hoàn thành công việc của đơn vị. Điều này tạo nên sự so sánh thu nhập trong cán bộ, công chức giữa các đơn vị.
b) Đối với các đơn vị quản lý hành chính không có tài khoản riêng, việc sử dụng dự toán, thanh quyết toán tập trung vào một đầu mối là Văn phòng Bộ nên việc sử dụng và thanh quyết toán kinh phí quản lý hành chính được giao gặp không ít khó khăn và nguồn kinh phí tiết kiệm trong năm được phân chia đồng đều cho các Vụ. Điều này không đánh giá đúng mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng Vụ, từng bộ phận, chưa gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công việc của từng Vụ nên không tạo ra động lực về kinh tế, dẫn đến một số đơn vị chưa thật sự quan tâm chỉ đạo sát sao để triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao cũng như chưa thực sự cố gắng trong việc tiết kiệm chi phí;
c) Trong những năm qua, tình hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính của một số đơn vị chưa nghiêm túc và còn một số tồn tại như: Một số đơn vị chi vượt chế độ, để mất kinh phí tại Kho bạc nhà nước với số lượng không nhỏ. Tuy nhiên, cho đến nay, đối với các đơn vị để mất kinh phí vẫn được chi khen thưởng, phúc lợi và chi thu nhập tăng thêm đồng đều như các đơn vị khác, đơn vị quản lý tài chính tốt cũng như chưa tốt đều không ảnh hưởng đến lợi ích của đơn vị, nên việc để mất kinh phí hàng năm vẫn tiếp diễn, gây khó khăn cho công tác quản lý, điều hành ngân sách chung của toàn ngành.
d) Một số cá nhân, đơn vị chưa có ý thức trong việc sử dụng tiết kiệm chi phí, đặc biệt là các chi phí chung như điện, nước, văn phòng phẩm, xăng xe, công tác phí làm ảnh hưởng đến khoản kinh phí tiết kiệm được.
e) Các đơn vị dự toán chưa xây dựng được các tiêu chí để đánh giá hiệu quả công tác hàng năm của cán bộ, công chức; chi thu nhập tăng thêm chủ yếu theo hình thức bình quân (cào bằng) nên không tạo được động lực phấn đấu của cán bộ, công chức trong công việc, không động viên, khuyến khích tinh thần hăng say, sáng tạo trong công việc.
f) Việc phân bổ kinh phí chưa gắn kết, sát với khối lượng, chất lượng công việc và mức độ hoàn thành công việc giữa các đơn vị.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
a) Nguyên nhân khách quan
- Mỗi đơn vị có một chức năng, nhiệm vụ khác nhau trong khi định mức chi khoán cho các đơn vị lại như nhau. Vì vậy, đối với các đơn vị có nhiệm vụ quản lý nhiều đầu mối, thường xuyên phải đi kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ thì chi phí thường xuyên cao, vì vậy, ảnh hưởng đến khoản kinh phí tiết kiệm được.
- Cơ chế quản lý tài chính cũ đã thành lối mòn trong cách điều hành của các nhà quản lý cũng như cách triển khai nhiệm vụ của từng cá nhân. Vì vậy, khi chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính, đội ngũ cán bộ quản lý và công chức chưa thích ứng ngay nên trong quá trình triển khai nhiệm vụ và sử dụng kinh phí khoán còn lúng túng, đặc biệt là trong việc xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế
- Định mức chi quản lý hành chính còn thấp trong khi giá cả ngày càng cao làm cho các chi phí như xăng, điện, văn phòng phẩm, điện thoại chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ kinh phí hoạt động của các đơn vị. Bên cạnh đó, các chế độ chi tiêu như công tác phí, tiếp khách, hội nghị phí, …được nhà nước điều chỉnh tăng nhưng định mức chi không được điều chỉnh tương ứng làm cho khoản thường xuyên của đơn vị tăng cao, ảnh hưởng đến kinh phí tiết kiệm được.
- Một số đơn vị chưa tuyển đủ biên chế trong khi kinh phí quản lý hành chính hàng năm được cấp theo biên chế kế hoạch được giao nên các đơn vị này có thu nhập tăng thêm cao hơn các đơn vị đã tuyển đủ biên chế. Vì vậy, nhìn vào mức chi thu nhập tăng thêm không đánh giá chính xác khả năng tiết kiệm chi phí của đơn vị.
b) Nguyên nhân chủ quan
- Các đơn vị sử dụng kinh phí chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chính sách, pháp luật của nhà nước về chế độ tự chủ tài chính và biên chế. Một số cán bộ, công chức, chưa thực sự quan tâm, cố gắng trong việc tiết kiệm chi tiêu.
- Hầu hết các chủ tài khoản không có nghiệp vụ về tài chính, kế toán nên trong công tác quản lý, sử dụng kinh phí được giao còn hạn chế; đội ngũ kế toán tại các đơn vị chưa thực sự làm tốt vai trò tham mưu cho thủ trưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ chi tiêu, sử dụng kinh phí bảo đảm tiết kiệm hiệu quả.
- Chưa tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các tồn tại trong công tác quản lý tài chính, kế toán tại các đơn vị.
- Ngoài ra, nguyên nhân của các tồn tại trên một phần do chưa có hệ thống chỉ tiêu, chuẩn mực để đánh giá, phân loại kết quả hoạt động của từng đơn vị một cách khách quan, công bằng để khuyến khích mọi cán bộ, công chức nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như nỗ lực trong việc sử dụng kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm, hiệu quả.
2.3. Giải pháp khắc phục
Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP và Liên Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTC-BNV hướng dẫn thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã tổ chức tập huấn trên toàn quốc cho hơn 1.500 cán bộ là chủ tài khoản và kế toán trưởng của các đơn vị dự toán cấp II, cấp III thuộc và trực thuộc Bộ.
Tiếp theo đó, Bộ Tư pháp đã ký hợp đồng với Học viện Tài chính - Bộ Tài chính để mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý tài chính và cấp chứng chỉ cho gần 1.000 cán bộ là chủ tài khoản của các đơn vị dự toán cấp II, cấp III thuộc và trực thuộc Bộ.
Ngoài ra, Bộ đã in tài liệu và có công văn hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP và các Thông tư hướng dẫn như xây dựng quy chế quản lý tài chính, tài sản, mẫu… và thường xuyên tập huấn, nâng cao trình độ cho đội ngũ kế toán của các đơn vị dự toán.
Tóm lại, xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước về việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị, đặc biệt từ thực trạng quản lý của Bộ về việc thực hiện quyền tự chủ tài chính đối với các đơn vị thuộc Bộ; đồng thời để nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị và tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức trong việc sử dụng biên chế, kinh phí của cơ quan hành chính và đảm bảo việc sử dụng kinh phí tiết kiệm, công bằng, công khai, gắn việc sử dụng kinh phí với hiệu quả công việc đúng tinh thần hướng dẫn của Nghị định 130/2005/NĐ-CP, cần thiết phải xây dựng Đề án “Xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị quản lý hành chính thuộc Bộ Tư pháp theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2005 của Chính phủ về quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước”.
PHẠM VI, MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Đề án này quy định các tiêu chí cơ bản để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị hành chính thuộc Bộ là các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP (không bao gồm các cơ quan thi hành án dân sự địa phương).
Một trong những nguyên tắc cơ bản để thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và tài chính đối với các đơn vị là phải đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vì vậy, Đề án xây dựng nhằm thiết lập một hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị, tạo cơ sở để các đơn vị phấn đấu, nâng cao hiệu quả công việc, đồng thời làm căn cứ sử dụng khoản kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được để chi trả tiền lương tăng thêm, chi khen thưởng, phúc lợi cho cán bộ công chức bảo đảm khách quan công bằng đối với người lao động.
Đồng thời, việc xây dựng Đề án nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính một các hợp lý nhất để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
III. Quan điểm chỉ đạo xây dựng đề án
Việc xây dựng và triển khai Đề án phải dựa trên các tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; đồng thời phải căn cứ yêu cầu công tác của từng đơn vị để các đơn vị tự xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá chi tiết, phù hợp với từng đơn vị trên cơ sở các tiêu chí cơ bản được Bộ xây dựng đảm bảo việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị, từng bộ phận công khai, công bằng, góp phần để đơn vị hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ được giao.
I. Khái quát về tổ chức bộ máy; biên chế của các đơn vị hành chính thuộc Bộ Tư pháp
1. Tổ chức bộ máy và biên chế
Theo quy định tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ và một số văn bản khác, Bộ Tư pháp có 31 đơn vị thuộc Bộ, bao gồm 21 đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 10 đơn vị sự nghiệp. Hiện nay, một số đơn vị được tăng cường, bổ sung chức năng, điều chỉnh nhiệm vụ, thay đổi tên gọi, kiện toàn tổ chức cho phù hợp với nhiệm vụ được giao, đồng thời, hầu hết các Vụ cũng được thành lập các phòng chuyên môn để thuận lợi cho công tác quản lý và triển khai nhiệm vụ.
Trong đó tổng số 31 đơn vị thuộc Bộ, có 21 đơn vị thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị định 130/2005/NĐ-CP, gồm Văn phòng Bộ (Văn phòng và 11 Vụ), Tổng cục Thi hành án dân sự, Thanh tra Bộ, Cục Trợ giúp pháp lý, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Cục Con nuôi, Cục Công nghệ thông tin, Cục Quản lý bồi thường nhà nước, Cơ quan đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh, còn 10 đơn vị là đơn vị sự nghiệp thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ.
2. Chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị
Mỗi đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có một chức năng, nhiệm vụ riêng, tuy nhiên, xét một cách tương đối thì một số đơn vị có tính chất công việc khá tương đồng. Các đơn vị quản lý hành chính thuộc Bộ có hai hình thức, hoặc là có tài khoản, con dấu riêng hoặc thực hiện công tác thanh quyết toán kinh phí tại tài khoản của Văn phòng Bộ. Vì vậy, có thể chia thành các nhóm đơn vị như sau:
- Các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực chuyên môn sử dụng tài khoản chung tại Văn phòng Bộ gồm 12 đơn vị: Vụ Hành chính tư pháp, Vụ Bổ trợ tư pháp, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Vụ Pháp luật quốc tế, Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Vụ Kế hoạch - Tài chính, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Thi đua - Khen thưởng, Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật và Văn phòng Bộ.
- Các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực có con dấu và tài khoản riêng, độc lập trong công tác sử dụng, thanh quyết toán kinh phí được giao gồm 09 đơn vị: Cơ quan Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Trợ giúp pháp lý, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Cục Con nuôi, Cục Công nghệ thông tin, Cục Bồi thường nhà nước, Cơ quan đại diện của Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh và Thanh tra Bộ.
Theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP thì mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ được đánh giá trên cơ sở các tiêu chí cơ bản sau:
1. Khối lượng, chất lượng công việc thực hiện;
2. Thời gian giải quyết công việc;
3. Tình hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính.
III. Tiêu chí đánh giá chi tiết
1. Đánh giá về khối lượng, chất lượng công việc thực hiện gồm các nội dung sau:
1.1. Công tác chuyên môn, nghiệp vụ thường xuyên của từng đơn vị được pháp luật quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao.
2.2. Kế hoạch công tác năm của đơn vị đã được Lãnh đạo Bộ phê duyệt;
1.3. Các nhiệm vụ đột xuất, phát sinh ngoài kế hoạch gồm xây dựng văn bản, đề án, báo cáo gửi các đơn vị cấp trên như: Chính phủ, Quốc hội, ...
2. Đánh giá về thời gian giải quyết công việc
a) Hàng năm, các đơn vị lập kế hoạch công tác trình Lãnh đạo Bộ phụ trách theo quy định tại Quyết định số 880/QĐ-BTP ngày 28 tháng 4 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Quy chế làm việc của Bộ Tư pháp. Chương trình công tác của đơn vị thuộc Bộ gồm: nội dung công việc, thời hạn hoàn thành công việc và phân công trách nhiệm thực hiện đến từng bộ phận, cán bộ, công chức của đơn vị. Đây là căn cứ để đánh giá về thời gian hoàn thành của từng nhiệm vụ cụ thể;
b) Công tác trả lời văn bản, kiến nghị của địa phương: Quyết định số 880/QĐ-BTP ngày 28 tháng 4 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Quy chế làm việc của Bộ Tư pháp quy định các văn bản được lấy ý kiến phải được trả lời trong vòng 05 ngày làm việc;
c) Nhiệm vụ xây dựng văn bản, đề án căn cứ vào thời gian đăng ký từ đầu năm để đánh giá;
d) Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có) được đánh giá theo Quyết định số 3961/QĐ-BTP ngày 26 tháng 9 năm 2011 của Bộ Tư pháp về ban hành Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo;
e) Thời gian góp ý, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn;
f) Những trường hợp khác do Lãnh đạo Bộ chỉ đạo.
3. Tình hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính
- Chấp hành tốt nội dung quy định của cơ quan, đơn vị và chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
- Chấp hành đầy đủ báo cáo thường xuyên theo định kỳ và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ;
- Chính sách cho người lao động (tiền lương, BHXH, BHYT); chính sách, chế độ về chuyên môn, nghiệp vụ;
- Công tác quản lý tài chính: lập dự toán ngân sách hàng năm theo quy định, lập chứng từ, báo cáo, sổ sách kế toán, quyết toán ngân sách năm đúng quy định (bao gồm nguồn ngân sách trong nước, nguồn viện trợ, tài trợ, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản); không để xẩy ra tình trang mất, hủy dự toán tại kho bạc, thực hiện công khai, minh bạch tài chính;
- Trong đơn vị không có cá nhân, bộ phận nào bị xử lý kỷ luật từ hình thức khiển trách trở lên;
- Nội bộ đơn vị đoàn kết, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, nội quy làm việc của cơ quan, đơn vị;
- Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung Quy chế chi tiêu nội bộ kịp thời, đúng chế độ (đối với các đơn vị có tài khoản riêng);
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý, sử dụng tài sản công kịp thời (đối với các đơn vị có tài khoản riêng);
- Thực hiện công tác quy hoạch, sắp xếp cán bộ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức; xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế hoạt động của đơn vị kịp thời theo đúng quy định.
Do tính chất công việc mỗi đơn vị có đặc thù riêng, vì vậy, để đảm bảo tính công bằng, minh bạch giữa các đơn vị khi đánh giá mức độ hoàn thành công việc thì cần thiết phải có một thước đo chung là chấm điểm cho từng lĩnh vực, từng tiêu chí.
Trên cơ sở số điểm các đơn vị tự đánh giá, sau khi các đơn vị chức năng rà soát, kiểm tra và Lãnh đạo Bộ phụ trách xác nhận mức độ hoàn thành nhiệm vụ, các đơn vị sử dụng khoản kinh phí tiết kiệm được tương ứng với mức độ hoàn thành nhiệm vụ như sau:
1. Nguyên tắc đánh giá
a) Việc đánh giá mức độ hoàn hành nhiệm vụ của các đơn vị được thực hiện bằng hình thức chấm điểm, thang điểm 100 và đánh giá theo các mức:
- Các đơn vị đạt từ 90-100 điểm được chi 100% kinh phí tiết kiệm được;
- Các đơn vị đạt từ 80-89 điểm được chi 85% kinh phí tiết kiệm được;
- Các đơn vị đạt từ 70-79 điểm được chi 70% kinh phí tiết kiệm được;
- Các đơn vị đạt từ 60-69 điểm được chi 50% kinh phí tiết kiệm được;
- Các đơn vị đạt dưới 60 điểm thì được coi là không hoàn thành nhiệm vụ và không được chi thu nhập tăng thêm, khen thưởng, phúc lợi trong năm.
b) Việc chấm điểm thực hiện theo các tiêu chí nêu tại Mục III và loại trừ các nguyên nhân khách quan làm ảnh hưởng đến mức độ hoàn thành công việc của đơn vị; các nhiệm vụ được Lãnh đạo Bộ cho phép thay đổi, điều chỉnh tiến độ thì căn cứ thời gian thay đổi để đánh giá.
c) Các nhiệm vụ để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của các đơn vị được tính theo năm ngân sách (từ ngày 01/01 đến hết ngày 31/12 năm dương lịch).
d) Đối với tiêu chí thời gian hoàn thành nhiệm vụ, các công việc không hoàn thành về chất lượng (không được Lãnh đạo Bộ phê duyệt, ký ban hành) được coi là các nhiệm vụ không hoàn thành về thời gian thực hiện và không được chấm điểm.
e) Đối với các đơn vị có phát sinh nhiệm vụ ngoài kế hoạch công tác năm được Lãnh đạo Bộ phê duyệt thì được cộng thêm tối đa 5 điểm.
2. Quy trình chấm điểm
a) Các đơn vị tự chấm điểm, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ căn cứ các tiêu chí và thang điểm theo biểu đính kèm Đề án này;
b) Các đơn vị gửi Bảng tự đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ về Bộ (Vụ Kế hoạch - Tài chính) trước ngày 31/01 năm sau;
c) Vụ Kế hoạch - Tài chính phối hợp với Văn phòng Bộ tổng hợp, theo dõi, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, trình Lãnh đạo Bộ phụ trách phê duyệt.
I. Các đơn vị quản lý hành chính thuộc Bộ không có tài khoản riêng
1. Các đơn vị không có tài khoản riêng có trách nhiệm gửi Vụ Kế hoạch - Tài chính và Văn phòng Bộ 01 bản Kế hoạch công tác năm của đơn vị sau khi được Lãnh đạo Bộ phụ trách ký ban hành để theo dõi.
2. Căn cứ vào tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc chung của Bộ ban hành, từng đơn vị phải xây dựng tiêu chí cụ thể, chi tiết đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị, bộ phận trực thuộc theo chức năng nhiệm vụ, đưa ra thảo luận công khai, dân chủ trước khi thủ trưởng đơn vị ký ban hành.
3. Hàng quý, 6 tháng, hàng năm hoặc theo yêu cầu, Thủ trưởng đơn vị rà soát, thống kê, đánh giá việc thực hiện kế hoạch công tác của đơn vị về kết quả giải quyết các công việc được giao, những công việc còn tồn đọng, hướng giải quyết tiếp theo, kiến nghị việc điều chỉnh, bổ sung chương trình công tác trong thời gian tới cũng như kinh phí để thực hiện.
4. Hết năm, các đơn vị phải tự chấm điểm đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị mình theo Bảng đánh giá các chỉ tiêu quy định tại Quy chế này để làm căn cứ sử dụng kinh phí tiết kiệm được và gửi về Văn phòng Bộ 01 bản, gửi về Vụ Kế hoạch - Tài chính 01 bản để tổng hợp, theo dõi, kiểm tra, báo cáo Lãnh đạo Bộ; các đơn vị phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Lãnh đạo Bộ về bảng tự đánh giá chấm điểm của đơn vị mình.
II. Các đơn vị có tài khoản riêng
1. Kế hoạch công tác năm của đơn vị sau khi được Lãnh đạo Bộ phụ trách ký ban hành, đơn vị có trách nhiệm gửi cho Vụ Kế hoạch - Tài chính, Văn phòng Bộ 01 bản để theo dõi.
2. Căn cứ vào tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc chung của Bộ ban hành, từng đơn vị phải xây dựng tiêu chí cụ thể, chi tiết đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị trực thuộc theo chức năng nhiệm vụ, đưa ra thảo luận công khai, dân chủ trước khi thủ trưởng đơn vị ký ban hành đồng thời gửi cho Vụ Kế hoạch - Tài chính 01 bản để theo dõi.
3. Hàng quý, 6 tháng, hàng năm hoặc theo yêu cầu, Thủ trưởng đơn vị rà soát, thống kê, đánh giá việc thực hiện kế hoạch công tác của đơn vị, gửi Vụ Kế hoạch - Tài chính, Văn phòng Bộ để tổng hợp, báo cáo Bộ trưởng về kết quả giải quyết các công việc được giao, những công việc còn tồn đọng, hướng giải quyết tiếp theo, kiến nghị việc điều chỉnh, bổ sung chương trình công tác trong thời gian tới cũng như kinh phí để thực hiện.
4. Hết năm ngân sách, đơn vị phải đánh giá, xác định nguồn kinh phí tiết kiệm được trong năm.
5. Hết năm, các đơn vị phải tự chấm điểm đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng bộ phận trực thuộc đơn vị mình theo Bảng đánh giá các chỉ tiêu quy định tại Quy chế này để làm căn cứ sử dụng kinh phí tiết kiệm được và gửi về Vụ Kế hoạch - Tài chính 01 bản để tổng hợp, theo dõi, kiểm tra, báo cáo Lãnh đạo Bộ; đơn vị tiến hành phân bổ kinh phí tiết kiệm được cho các đơn vị trực thuộc đơn vị theo tiêu chí chi tiết mà đơn vị đã xây dựng và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Lãnh đạo Bộ về bảng tự đánh giá chấm điểm của đơn vị mình.
1. Phối hợp với Vụ Kế hoạch - Tài chính theo dõi, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị hưởng thụ kinh phí tại Văn phòng Bộ.
2. Trên cơ sở mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị, Văn phòng Bộ xây dựng phương án phân bổ, theo dõi kinh phí hoạt động cho từng đơn vị một cách hợp lý, khoa học nhằm gắn theo dõi tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao với tình hình và hiệu quả sử dụng kinh phí của từng đơn vị.
3. Phân bổ kinh phí tiết kiệm được cho các đơn vị hưởng lương tại Văn phòng Bộ theo mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng đơn vị.
Căn cứ chức năng nhiệm vụ và kết quả đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ của từng đơn vị, rà soát, điều chỉnh, bổ sung biên chế hành chính, trình Bộ trưởng phê duyệt đảm bảo biên chế cho các đơn vị để tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Căn cứ kết quả tự đánh giá chấm điểm của các đơn vị, Vụ Thi đua khen thưởng tổng hợp, đề xuất Hội đồng thi đua cụm, Hội đồng thi đua ngành xem xét, làm cơ sở thực hiện công tác khen thưởng cho các đơn vị.
1. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan kiểm tra, rà soát việc thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Bộ; tham mưu, đề xuất Lãnh đạo Bộ phê duyệt mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị để làm căn cứ cho việc chi trả thu nhập tăng thêm hàng năm.
2. Kiểm tra tình hình sử dụng, quyết toán kinh phí tiết kiệm được theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ.
3. Trong quá trình tổ chức thực hiện, hàng năm, Vụ Kế hoạch - Tài chính chủ trì, phối hợp với các đơn vị xem xét, rút kinh nghiệm để bổ sung hoàn chỉnh các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ làm cơ sở để thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP thiết thực hiệu quả.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.