ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 3000/QĐ-UBND |
Vĩnh Phúc, ngày 29 tháng 12 năm 2023 |
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2020-2025;
Căn cứ Chương trình hành động số 10-CTr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
Căn cứ Quyết định số 529-QĐ/TU ngày 11/01/2022 và Quyết định số 880-QĐ/TU ngày 23/12/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm 2022 và năm 2023 cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
Căn cứ ý kiến thông qua của Thành viên UBND tỉnh;
Căn cứ ý kiến thống nhất của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số: 2950/SKHĐT-THQH ngày 03 tháng 10 năm 2023.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định Đề án huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong dân cư để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2025.
Điều 2. Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố có liên quan tham mưu tổ chức thực hiện Đề án đúng quy định.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Thủ trưởng các sở, ban, ngành; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố; các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN |
HUY ĐỘNG, SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC TRONG
DÂN CƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2025
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 3000/QĐ-UBND ngày 29 tháng 12 năm 2023
của UBND tỉnh Vĩnh Phúc)
1. Sự cần thiết và căn cứ xây dựng Đề án
1.1. Sự cần thiết của Đề án
Kể từ khi thành lập đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc đạt nhiều thành công trong phát triển kinh tế - xã hội. Từ một tỉnh nông nghiệp, Vĩnh Phúc đã thành công trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa trở thành một tỉnh công nghiệp với vị thế ngày càng cao trong tăng trưởng kinh tế của cả nước. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2016-2020 của tỉnh bình quân đạt 7,03%/năm, cao so với mức bình quân chung cả nước là 6%/năm. Đây là kết quả của việc huy động và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế của tỉnh trong đó có yếu tố vốn. Tăng trưởng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh tăng trưởng khá nhanh, bình quân đạt 11,1%/năm giai đoạn 2016-2020, tăng nhanh hơn tốc độ tăng vốn của cả nước là 8,2%/năm. Do đó, đóng góp của yếu tố vốn chiếm tỷ trọng chủ yếu cho mức tăng trưởng cao và ổn định của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian vừa qua. Trong thời gian qua, yếu tố vốn thường chiếm tới 55% đóng góp vào tốc độ tăng trưởng của tỉnh. Xem xét cơ cấu vốn cho phát triển kinh tế của tỉnh, tỷ trọng nguồn vốn từ khu vực đầu tư nước ngoài tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn, đạt 35% tổng vốn, rất cao so với tỷ lệ bình quân của cả nước là 16,5% và của vùng Đồng bằng sông Hồng là 19,2%. Nguồn vốn FDI ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhưng sẽ đặt ra nhiều thách thức cho tăng trưởng của tỉnh trong dài hạn, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến ngày càng phức tạp và nhiều rủi ro như hiện nay. Trong khi đó nguồn lực trên địa bàn vẫn còn nhiều dư địa để phát triển. Vốn khu vực ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vẫn chiếm tỷ trọng chủ chốt (43%) với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,3%/năm giai đoạn 2016-2020. Trong đó, 70% là nguồn vốn từ khu vực dân cư và chỉ có 30% là vốn thuộc khu vực doanh nghiệp. Do những khó khăn trong giai đoạn chịu ảnh hưởng của COVID-19, vốn khu vực doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cho thấy dấu hiệu thu hẹp lại, tốc độ tăng trưởng chậm nhưng đây là ảnh hưởng trong ngắn hạn. Về dài hạn, nguồn vốn từ khu vực dân cư có thể được sử dụng với quy mô đầu tư ngày càng lớn và khuyến khích chuyển đổi loại hình sang nguồn vốn doanh nghiệp để mở rộng quy mô sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Trong giai đoạn tới, nhiều chương trình, dự án được kì vọng thực hiện trong Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030, tầm nhìn tới năm 2050 và thực hiện Đề án cơ cấu lại nền kinh tế, các hoạt động này đều đòi hỏi sự tham gia nhiều hơn nữa của khu vực tư nhân và nhu cầu sử dụng vốn cho phát triển ngày càng lớn. Do đó, việc xây dựng Đề án “Huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong dân cư để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2025” trở nên cần thiết để đưa ra những định hướng nhằm tận dụng nguồn lực hiện có trên địa bàn phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong dài hạn.
1.2. Căn cứ xây dựng Đề án
- Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2020-2025;
- Chương trình hành động số 10-Ctr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
- Quyết định số 529-QĐ/TU ngày 11/01/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm 2022 cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
- Quyết định số 880-QĐ/TU ngày 23/12/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023 cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
2. Mục tiêu, yêu cầu, phạm vi của đề án
2.1. Mục tiêu xây dựng Đề án
Tập trung phân tích, đánh giá khách quan, trung thực về những kết quả đạt được, những hạn chế trong quá trình huy động, sử dụng nguồn lực trong dân cư cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2016-2021, từ đó đề ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp có tính khoa học, sát với thực tiễn nhằm huy động, sử dụng nguồn lực trong dân cư cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn đến năm 2025.
2.2. Yêu cầu đối với nhiệm vụ xây dựng Đề án
Đề án phải giải đáp có căn cứ khoa học các vấn đề sau:
- Đánh giá thực trạng các cơ chế, chính sách của Nhà nước, của địa phương và kết quả huy động, sử dụng nguồn lực vốn trong dân cư cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó tập trung đánh giá:
+ Thực trạng huy động vốn từ khu vực ngoài nhà nước từ công cụ (kênh) tiền gửi ngân hàng, công cụ (kênh) xã hội hóa, công cụ (kênh) trái phiếu chính quyền địa phương, công cụ (kênh) chính sách ưu đãi.
+ Thực trạng sử dụng có hiệu quả vốn từ khu vực ngoài nhà nước: giải ngân và thực hiện các dự án sử dụng vốn xã hội hóa (giáo dục đào tạo, y tế và văn hóa); hiệu quả nguồn lực trong dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
+ Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân (chủ quan và khách quan).
- Dự báo những thuận lợi, khó khăn, thách thức, cơ hội và nhu cầu sử dụng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2025.
- Xác định rõ quan điểm, mục tiêu huy động, sử dụng nguồn lực trong dân cư để phát triển.
- Đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với khả năng, đặc điểm và điều kiện riêng của tỉnh nhằm thực hiện được các mục tiêu đã đề ra.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của Đề án
+ Phạm vi về nguồn lực: Tập trung vào nguồn lực vốn.
+ Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Khu vực ngoài nhà nước (bao gồm doanh nghiệp tư nhân và người dân)
+ Phạm vi nội dung: Huy động và sử dụng có hiệu quả vốn từ khu vực ngoài nhà nước
3. Phương pháp nghiên cứu và khung phân tích
- Phương pháp nghiên cứu: Tại bàn, tổng thuật tài liệu thứ cấp trong và ngoài nước, phân tích dữ liệu thứ cấp, số liệu thống kê tỉnh, phân tích hệ thống, dự báo, phân tích thống kê, tham vấn ý kiến chuyên gia, tham vấn ý kiến Sở, ban ngành.
- Khung phân tích:
+ Đối với nội dung Huy động vốn: Tiếp cận theo góc độ các công cụ/phương thức huy động vốn từ khu vưc ngoài nhà nước trên các khía cạnh gồm hoàn thiện chính sách đến thực tiễn triển triển khai chính sách và thực trạng nguồn vốn huy động được từ công cụ/phương thức này.
+ Đối với nội dung Sử dụng có hiệu quả vốn: Tiếp cận trên một số góc độ sau: Chỉ số ICOR; tỷ lệ vốn đầu tư trên GRDP; tỷ lệ giải ngân vốn…
- 01 Báo cáo tổng hợp.
I. Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2016-2021
1. Bối cảnh phát triển kinh tế
1.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kể từ khi tái lập tỉnh cho đến nay, vị thế của tỉnh Vĩnh Phúc ngày càng được củng cố và phát triển vững mạnh. Quy mô kinh tế tỉnh ngày càng được mở rộng, tính đến năm 2020, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đạt 123,6 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 7,03%/năm, cao so với bình quân cả nước trong cùng giai đoạn là 6%/năm. Năm 2021, tổng sản phẩm trên địa bàn Vĩnh Phúc tăng 8,02% so với năm 2020, đứng thứ 9 trong cả nước, là mức tăng trưởng rất cao so với bình quân cả nước là 2,5% và đạt 136,18 nghìn tỷ đồng. Trong số 3 nhóm ngành lớn, công nghiệp-xây dựng có đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng của tỉnh, là nhóm ngành chủ chốt thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành CN-XD bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 10,3%/năm, đóng góp khoảng 64,2% vào tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh Vĩnh Phúc. Vai trò của CN-XD tại Vĩnh Phúc ngày càng tăng, đóng góp vào tăng trưởng của CN-XD đã tăng từ 37,7% trong năm 2016 lên 75,8% trong năm 2020. Mặc dù trong năm 2020, Vĩnh Phúc cũng như nhiều tỉnh thành trong cả nước chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch COVID-19, CN-XD vẫn là ngành giữ vững vai trò động lực kinh tế của tỉnh. Trong năm 2021, CN-XD cũng là khu vực có tăng trưởng cao nhất, tăng 12,98% so với năm 2020, riêng công nghiệp tăng 13,84%; NLTS tăng 4,81% và DV tăng 2,96%.
Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong giai đoạn 2016-2020, kinh tế Vĩnh Phúc chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành Công nghiệp-xây dựng, trong đó chủ yếu là công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT), giảm dần tỷ trọng Nông, lâm, thuỷ sản và Dịch vụ. Tỷ trọng giá trị gia tăng ngành CN-XD đã tăng thêm 5,4 điểm % trong giai đoạn 2016-2020, đến năm 2020, CN-XD chiếm 45,5% cơ cấu kinh tế Vĩnh Phúc (cao hơn so với bình quân toàn vùng ĐBSH là 41,2%, đứng thứ 7/11 tỉnh trong vùng) và tiếp tục tăng lên 48% trong năm 2021. Trong khi đó, ngành NLTS có tỷ trọng giảm từ 7,4% năm 2015 xuống còn 6,1% năm 2020, đến năm 2021 còn 5,9%. Trong cùng giai đoạn, tỷ trọng của ngành DV tăng nhẹ 0,28 điểm %, đạt 22,6% vào năm 2020, tuy nhiên, do ảnh hưởng của COVID-19, tỷ trọng ngành DV hiện đang giảm nhẹ, chỉ còn 21,4% trong năm 2021; thuế sản phẩm chiếm 24,7%. Cơ cấu trong nội bộ các ngành cũng có những chuyển dịch theo hướng tích cực. Ngành CNCBCT là ngành công nghiệp chủ chốt trong tăng trưởng ngành công nghiệp của tỉnh, trong đó tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng lên nhanh chóng. Tuy vậy, quy mô CN-XD của tỉnh còn khá thấp so với các tỉnh trong vùng. Quy mô ngành CN-XD của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ chiếm 5,7% tổng giá trị gia tăng ngành CN-XD của vùng ĐBSH, chỉ bằng 1/5 so với Hà Nội, 1/3 so với Bắc Ninh và ½ so với Quảng Ninh. Đóng góp chủ yếu vào ngành công nghiệp của tỉnh là khu vực FDI. Hai ngành công nghiệp chủ chốt của tỉnh đều phụ thuộc lớn vào FDI: đối với ngành cơ khí, sản xuất ô tô, xe máy 100% được thực hiện bởi khu vực đầu tư nước ngoài, không có doanh nghiệp tư nhân trong nước; đối với ngành sản xuất linh kiện điện tử, 99,8% doanh thu đến từ khu vực FDI. Vai trò của khu vực FDI ngày càng lớn và trở thành một trong những khu vực giữ vai trò chủ chốt trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, nền kinh tế nếu dựa chủ yếu vào khu vực FDI dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp và nhiều rủi ro như hiện nay.
Ngành nông nghiệp cũng có sự chuyển biến tích cực với sự gia tăng ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, sản xuất sản phẩm OCOP, sản phẩm sạch, hướng đến sản xuất tập trung và sử dụng các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao hơn. Ngành dịch vụ tại Vĩnh Phúc trong giai đoạn gần đây có sự chuyển dịch sang hướng tăng tỷ trọng các ngành ngành thương mại, giáo dục và đào tạo, và ngành dịch vụ y tế trong khi giảm tỷ trọng ở hầu hết các ngành dịch vụ còn lại. Dịch vụ thương mại đã phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đa dạng với nhiều siêu thị, chợ, trung tâm thương mại...
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế của tỉnh có nhiều thành tựu trong giai đoạn 2016-2021. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh chủ yếu do đóng góp của nhóm ngành CN-XD, mà chủ đạo là các ngành chế biến chế tạo. Các ngành dịch vụ mặc dù đóng vai trò quan trọng thứ hai trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhưng tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 còn chậm và không đạt mục tiêu đề ra. Trong khi đó, tăng trưởng khu vực NLTS thấp, không ổn định trong giai đoạn 2011-2020, và đặc biệt chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh trong năm 2019. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mặc dù cơ cấu kinh tế tỉnh chuyển dịch theo hướng tích cực, khu vực CN-XD tiếp tục giữ vai trò đầu tàu, động lực cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhưng chuyển dịch cơ cấu đang có xu hướng ngày một chậm dần. Theo khu vực, cơ cấu kinh tế tỉnh chuyển dịch chậm và có xu hướng ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đây là xu thế thiếu bền vững và ổn định trong tăng trưởng.
1.2. Phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế
Cùng với tăng trưởng kinh tế, hệ thống hạ tầng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đang ngày càng hoàn thiện. Về phát triển đô thị, đến nay, tỉnh có 29 đô thị, trong đó có 1 đô thị loại II (thành phố Vĩnh Yên), 01 đô thị loại III (thành phố Phúc Yên) và 27 đô thị loại V thuộc huyện, trong đó có 16 thị trấn và 11 đô thị được công nhận loại V. Tỷ lệ đô thị hoá tại Vĩnh Phúc năm 2020 đạt 30% (tăng 6,67 điểm phần trăm so với năm 2015), tuy nhiên vẫn thấp hơn so với cả nước (36,8%) và một số tỉnh khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng ví dụ như Hà Nội (49,3%), Quảng Ninh (64,4%), Bắc Ninh (31,5%). Công tác xây dựng và phát triển đô thị trên địa bàn đạt nhiều kết quả tích cực, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống người dân. Khu vực nông thôn của tỉnh đã được đầu tư cứng hóa 280,6 km đường giao thông nông thôn và 209 đường trục chính giao thông nội đồng. 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới. 99% đạt tiêu chí giao thông; 100% hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn.
Hệ thống hạ tầng giao thông trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế. Nhiều tuyến giao thông quan trọng đã được hình thành, nâng cấp và mở rộng với cả 3 loại hình: giao thông đường bộ, đường sắt và đường thuỷ nội địa. Đối với hạ tầng giao thông đường bộ, hiện trên địa bàn tỉnh có: 1) 1 tuyến đường bộ cao tốc Hà Nội - Lào Cai nối vùng thủ đô Hà Nội lên phía Bắc, qua 4 tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai và kết nối sang Vân Nam, Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai; 2) có 3 tuyến quốc lộ dài tổng cộng 81,64 km, gồm quốc lộ 2, quốc lộ 2 đoạn tránh, quốc lộ 2C; 3) có 17 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 371,3km, đã được cải tạo, nâng cấp cứng hóa đạt 100% bằng bê tông nhựa hoặc bê tông xi măng; 4) 5 đường vành đai để kết nối các trung tâm thu hút ngoài đô thị Vĩnh Phúc; 5) 194 tuyến đường huyện với tổng chiều dài 693,11 km hiện đã được đầu tư, nâng cấp; 6) tổng số 308,9 km đường đô thị, tập trung chủ yếu ở 02 đô thị là thành phố Vĩnh Yên và thành phố Phúc Yên. Vĩnh Phúc có 9 bến xe khách, gồm các bến xe: Vĩnh Yên (bến tạm), Tam Đảo (loại 1), Lập Thạch (loại 4), Yên Lạc (loại 6), Vĩnh Tương (loại 4), TT Vĩnh Tường (loại 4); Phúc Yên (loại 4), Tam Dương (loại 3) và Sông Lô (loại 3); 01 trạm dừng nghỉ Phước An trên tuyến cao tốc Hà Nội - Lào Cai thuộc địa phận xã Hương Sơn, huyện Bình Xuyên; và 01 Trung tâm logistics (Trung tâm logistics ICD Vĩnh Phúc đang được xây dựng tại thị trấn Hương Canh và xã Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên). Đối với hạ tầng giao thông đường thuỷ, hiện Vĩnh Phúc có 03 cảng sông, 39 bến hàng hóa, 02 bến phà và 05 bến khách ngang sông phân bố trên sông Hồng và sông Lô. Tuy nhiên, hạn chế là các cảng sông đều là các cảng tạm, bốc xếp thủ công, công suất hạn chế. Đối với hạ tầng giao thông đường sắt, tỉnh Vĩnh Phúc có 01 tuyến đường sắt cấp Quốc gia đi qua dài 35 km là tuyến Hà Nội - Lào Cai. Trên tuyến có 05 nhà ga hiện đang khai thác, gồm: ga Phúc Yên, ga Hương Canh, ga Vĩnh Yên, ga Hướng Lại, ga Bạch Hạc. Trong đó 02 ga chính là ga Phúc Yên và ga Vĩnh Yên. Đa phần các ga có quy mô nhỏ (chủ yếu là hạng 4). Đến thời điểm Quy hoạch giai đoạn 2021-2030, việc đầu tư thực hiện các tuyến cao tốc, quốc lộ đã hoàn thành xây dựng và nâng cấp. Đường vành đai tỉnh đã hoàn thành 70% trong khi đường tỉnh mới được đầu tư dưới 30% theo quy hoạch do sự hạn chế về nguồn lực. Hệ thống giao thông đường thuỷ chưa được đầu tư nạo vét luồng thuỷ. Hệ thống các cảng, bến thuỷ nội địa hiện vẫn còn là các bến tạm chưa được xây dựng và nâng cấp. Hạ tầng giao thông đường sắt hiện chưa được xây dựng và đầu tư theo quy hoạch làm chậm phát triển vận tải đường sắt trên tuyến. Công tác đầu tư cảng, bến bãi chủ yếu phụ thuộc doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân thực hiện.
Hệ thống hạ tầng cấp nước đã được đầu tư nhưng tỷ lệ bao phủ dịch vụ còn thấp. Trên địa bàn tỉnh có 44 công trình nước sạch nông thôn, trong đó có 05 công trình liên xã, còn lại 39 công trình quy mô xã, thôn. Tuy vậy, một số thị trấn có tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch còn thấp như thị trấn Đạo Đức tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 16,3%, thị trấn Đại Đình tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 3,5%, thị trấn Hoa Sơn tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 55,8%, thị trấn Tam Sơn tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 29,7%, thị trấn Hợp Hòa tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch 29,8%… Đặc biệt, thị trấn Yên Lạc đã có công trình cấp nước tập trung, công suất 2.500m3/ngđ , nhưng hầu như các tổ chức và người dân trên địa bàn không đấu nối sử dụng nước sạch, tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch mới đạt 5,68%. Những năm gần đây lĩnh vực cấp nước cũng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư quan tâm, trên địa bàn tỉnh đã có một số dự án đầu tư xây dựng các công trình cấp nước quy mô lớn mang tính cấp vùng đang được đầu tư xây dựng, như nhà máy nước Phúc Bình tại xã Đức Bác, huyện Sông Lô do Công ty CP Đầu tư phát triển Yên Bình làm chủ đầu tư, sử dụng nguồn nước mặt Sông Lô, công suất thiết kế 150.000m3/ngđ, mạng lưới đường ống truyền tải chạy dọc cao tốc Nội Bài - Lào Cai có đường kính từ D600 đến D1500, L=40km; Nhà máy nước Sông Hồng tại xã Tam Phúc huyện Vĩnh Tường do Công ty CP Xây dựng Procons làm chủ đầu tư, công suất thiết kế 29.000m3/ngđ và mạng lưới đường ống phân phối cho vùng phía Nam; Nhà máy nước cấp cho địa bàn các xã (Hồ Sơn, Bồ Lý, Đạo Trù, Yên Dương) và các xã (Ngọc Mỹ, Quang Sơn, Hợp Lý) huyện Tam Đảo và Lập Thạch do Công ty TNHH Đầu tư nước sạch Minh Anh làm chủ đầu tư, công suất thiết kế 10.000 ngđ. Khi các nhà máy này đi vào hoạt động sẽ cơ bản đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước sạch phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cho các giai đoạn phát triển. Tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch ở khu vực nông thôn còn thấp, Đánh giá nước sạch nông thôn năm 2021 thì tỷ lê này mới chỉ là 17,18% từ công trình cấp nước tập trung; 48,91% từ công trình cấp nước nhỏ lẻ. Các công trình cấp nước tập trung nông thôn hoạt động ổn định cho chất lượng nước cấp đạt yêu cầu theo QCVN 02:2009. Tuy nhiên vẫn còn nhiều công trình hoạt động không bền vững, trang thiết bị xuống cấp dẫn đến dấu hiệu suy giảm chất lượng nước sau xử lý. Một số doanh nghiệp đã được UBND tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư dự án cấp nước sạch với quy mô, công suất lớn từ 29.000 m3/ngđ đến 500.000 m3/ngđ bằng nguồn vốn doanh nghiệp, nhưng tiến đô triển khai rất chậm và có dự án vẫn chưa triển khai thi công. Mới thu hút được các doanh nghiệp tham gia đầu tư công trình cấp nước tại những khu vực dân cư sống tập trung, chưa thu hút đầu tư vào những nơi khó khăn, nguồn nước bị ô nhiễm, dân cư sống không tập trung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Một số nơi chính quyền chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc huy động nguồn lực của địa phương và nhân dân tham gia xây dựng công trình cấp nước, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
Hệ thống hạ tầng thủy lợi trên địa bàn đã được đầu tư và quản lý bởi một số Công ty TNHH MTV như Công ty TNHH MTV thủy lợi Lập Thạch, Tam Đảo, Lập Thạch, Liễn Sơn. Toàn tỉnh hiện có 441 hồ đập với tổng dung tích 102 triệu m3; có 383 trạm bơm điện với tổng công suất điện lắp đặt 20.500 KW; có trên 7000 km kênh mương các loại, hiện đã kiến cố hoàn thành các tuyến kênh từ kênh loại I đến loại III, kênh nội đồng đã kiến cố khoảng 20%. (trong đó kênh loại I: 90,2, kênh loại II: 364,3 km, kênh loại III:1854,4 km, kênh nội đồng: 4748 km). Phân loại về công trình có trên 300 công trình thủy lợi lớn và vừa còn lại là thủy lợi nhỏ, diện tích tưới tiêu, diện tích cây trồng hàng năm được phục vụ tưới tiêu khoảng 110 ha (3 vụ), diện tích nuôi trồng thủy sản được cấp nước 5.400 ha. Các công trình thủy lợi lớn và vừa cơ bản đã được đầu tư cải tạo phục vụ tốt cho sản xuất và cấp nước. Hầu hết các công trình này đã được bàn giao lại cho các công ty quản lý. Tuy nhiên, kể từ khi nhận bàn giao đến nay, một số công trình đã xuống cấp, chậm được đầu tư cải tạo, nâng cấp nên ảnh hưởng nghiêm trọng tới công tác điều tiết nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Quy hoạch mạng lưới điện của tỉnh Vĩnh Phúc về cơ bản đảm bảo nguồn điện cung cấp cho phụ tải của địa phương. Lưới điện 220kV và 500kV đang được triển khai thi công. Xây dựng mới trạm biến áp 110kV: Tổng công suất các trạm biến áp 110kV xây dựng mới đạt được 14.5% so với quy hoạch đã đề ra. Cải tạo nâng công suất trạm biến áp 110kV: Tổng công suất các trạm biến áp 110kV được nâng công suất đạt được 47% so với quy hoạch đã đề ra. Xây dựng đường dây 110kV: Tổng khối lượng xây dựng mới đường dây 110kV đạt khoảng 9% so với quy hoạch đã đề ra. Cải tạo nâng khả năng tải đường dây 110kV: có tổng cộng 10 công trình cải tạo nâng khả năng tải các đường dây 110kV, tuy nhiên đến nay đã có 05 tuyến đường dây hoàn thành. Để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ tới, mạng lưới điện trên địa bàn tỉnh cần được cải thiện, đẩy nhanh tốc độ triển khai, tăng cường đầu tư và nâng cấp hơn nữa.
Hệ thống hạ tầng KCN, CCN đang dần được đầu tư hoàn thiện, thu hút doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Tính đến nay, Vĩnh Phúc được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung Quy hoạch phát triển KCN đến năm 2021 là 19 KCN. Tính đến 15/9/2021, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 14 KCN đã có chủ trương đầu tư, trong đó có 13 KCN đã thành lập cụ thể: có 10 KCN đã được cấp GCNĐT/GCNĐKĐT; có 08/12 KCN đi vào hoạt động. Tổng vốn đầu tư đăng ký 12 dự án KCN là 12.760,75 tỷ đồng (trong đó: vốn đầu tư trực tiếp: 12.643,75 tỷ đồng và vốn ngân sách 117 tỷ đồng) và 117,42 triệu USD. Tổng diện tích đất quy hoạch là 2.338,53 ha, trong đó đất công nghiệp theo quy hoạch 1.716,92 ha; diện tích đất đã bồi thường là 1.044,05 ha; Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê, đăng ký thuê: 893,47 ha, tỷ lệ lấp đầy KCN đạt 52%. Trong giai đoạn 2010-2020, các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 306 dự án đầu tư thứ cấp, 260 dự án với tổng số vốn đăng ký 3.461,49 triệu USD, chiếm 84% tổng số dự án FDI từ trước đến nay và 80% tổng vốn đầu tư FDI đăng ký từ trước đến nay; 46 dự án DDI với tổng số vốn đăng ký 4.730,35 tỷ đồng, chiếm 78% tổng số dự án DDI từ trước đến nay và 80% tổng vốn đầu tư DDI đăng ký từ trước đến nay. Các dự án đầu tư trong KCN phần lớn đều hoạt động hiệu quả, các chỉ tiêu kinh tế năm sau đạt cao hơn năm trước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng tích cực, đưa Vĩnh Phúc từ một tỉnh thuần nông trở thành một trong những tỉnh có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) nhanh trên cả nước. Hàng năm, đóng góp của các doanh nghiệp KCN chiếm khoảng 60% GTSXCN toàn tỉnh, kim ngạch xuất khẩu chiếm 60-65% giá trị xuất khẩu toàn tỉnh, nộp ngân sách chiếm 30-35% tổng thu ngân sách toàn tỉnh; đến nay các doanh nghiệp đã tạo việc làm cho hàng 100 nghìn lao động (bình quân 134 người/ha đất công nghiệp). Trong đó có đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp tiêu biểu như Honda, Piaggio, VPIC1, Partron Vina, Haesung Vina, Jahwa Vina; Thép Việt Đức; Prime Group…
1.3. Hợp tác, liên kết phát triển trong và ngoài nước
Thực hiện chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trong thời gian qua, công tác đối ngoại luôn được Vĩnh Phúc quan tâm thực hiện. Vĩnh Phúc đã triển khai nhiều hoạt động đối ngoại thiết thực, hiệu quả trên nhiều phương diện như kinh tế, văn hoá, nhằm không ngừng mở rộng mối quan hệ, hợp tác hữu nghị với địa phương của các nước trên thế giới; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường công tác quảng bá hình ảnh của tỉnh đến với bạn bè trên thế giới.
Ngoại giao, ký kết và thực hiện các thoả thuận quốc tế. Vĩnh Phúc luôn quan tâm thực hiện các hoạt động đối ngoại, ngoại giao, duy trì quan hệ tốt đẹp với các đối tác, từ đó tạo tiền đề quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động hợp tác trong tương lai, gửi thư thăm hỏi, động viên các địa phương, quốc gia có quan hệ ngoại giao với tỉnh trong giai đoạn đại dịch COVID-19 diễn ra; gửi công thư chúc mừng Quốc khánh các nước: Australia, Ấn Độ, New Zealand, Bulgari, Israel, Vương quốc Anh, Nga và Philippines. Tỉnh Vĩnh Phúc linh hoạt chuyển đổi hình thức trao đổi thông tin với các địa phương nước ngoài, các cơ quan, tổ chức quốc tế sang hình thức hội nghị, hội thảo trực tuyến nhằm tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế và phù hợp với tình hình mới.
Đối với các địa phương của Lào, Vĩnh Phúc đặc biệt chú trọng duy trì mối quan hệ truyền thống; tăng cường hỗ trợ cơ sở vật chất, đào tạo cho các địa phương của Lào. Trong năm 2021, Vĩnh Phúc tiếp tục hỗ trợ đào tạo cho các du học sinh Lào trên địa bàn tỉnh, duy trì hoạt động hỗ trợ đào tạo cho 02 tỉnh Bắc Lào (Luang Namtha và Oudomxay); cùng như lên kế hoạch hỗ trợ các địa phương Bắc Lào trong đào tạo cán bộ ngành y dược (chuyên ngành điều dưỡng) và nông nghiệp. Trong giai đoạn dịch COVID-19 diễn ra, Vĩnh Phúc đã chủ động hỗ trợ các trang thiết bị, vật tư y tế chống dịch cho ba tỉnh Bắc Lào gồm tỉnh Luang Namtha, Luang Prabang và Oudomxay với tổng giá trị gần 900 triệu đồng.
Bên cạnh tiếp tục duy trì và phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các đối tác truyền thống, mở rộng và thiết lập quan hệ với các đối tác mới. Hiện nay, Vĩnh Phúc có quan hệ hợp tác hữu nghị với các tỉnh Bắc lào, tỉnh Chungcheongbuk (Hàn Quốc); tỉnh Akita và tỉnh Tochigi (Nhật Bản). Trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã ký kết 03 thỏa thuận quốc tế mới, bao gồm: ký kết với Trung tâm Tư vấn và giải pháp Công nghệ Việt-Hàn về hợp tác xúc tiến đầu tư; Bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác đầu tư với Liên danh Công ty Cổ phần sữa Việt , Tổng Công ty chăn nuôi Việt Nam - CTCP và tập đoàn SOJITZ của Nhật Bản; Ký kết Bản ghi nhớ quan hệ hợp tác hữu nghị với tỉnh Tochigi - Nhật Bản. Trong năm 2021, Vĩnh Phúc đã tăng cường triển khai nhiều hoạt động hợp tác với các cơ quan Đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam: trao đổi kết nối, tiến tới ký kết quan hệ hợp tác hữu nghị với 07 địa phương bao gồm: tỉnh Vô-rô-nhét (Liên bang Nga), thành phố Pontedera (Italia), thành phố Bruno (Cộng hoà Séc), tỉnh Béc- níc (Bulgari), thành phố San Diego, bang California và thành phố Portland, bang Oregon (Mỹ); định hướng mở rộng quan hệ hợp tác với địa phương của hai nước Đức, Pháp.
Ngoại giao trên lĩnh vực kinh tế: trong thời gian qua, Vĩnh Phúc cũng không ngừng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, chủ động mở rộng thị trường xúc tiến đầu tư. Thông qua các diễn đàn song phương, đa phương, các hội chợ thương mại quốc tế, Vĩnh Phúc đã đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư, vận động viện trợ phi chính phủ. Hằng năm, tỉnh tổ chức các đoàn thăm hữu nghị kết hợp xúc tiến đầu tư, tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế tại nước ngoài để quảng bá, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của tỉnh với bạn bè quốc tế, cùng với đó là việc phối hợp tốt với Đại sứ quán các nước tại Việt Nam để tăng cường hợp tác hữu nghị và tranh thủ kêu gọi các dự án đầu tư.
Đến năm 2021, có 20 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Vĩnh Phúc, trong đó Hàn Quốc là quốc gia có số lượng nhà đầu tư lớn nhất, sau đó là Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Italia, … Đến năm 2021, luỹ kế toàn tỉnh có 429 dự án FDI còn hiệu lực (tăng thêm 202 dự án so với luỹ kế 227 dự án FDI vào năm 2016), với tổng vốn FDI đăng ký trên địa bàn Vĩnh Phúc là 7,1 tỷ USD (tăng thêm 3,61 tỷ USD so với luỹ kế 3,49 tỷ USD vào năm 2016). Đối với đầu tư trong nước, đến năm 2021, luỹ kế toàn tỉnh có 824 dự án DDI (tăng thêm 88 dự án so với luỹ kế đến năm 2016), tổng vốn đầu tư là hơn 109,97 nghìn tỷ đồng (tăng thêm 60,21 nghìn tỷ đồng so với luỹ kế 49,76 nghìn tỷ đồng vào năm 2016).
Vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài. Năm 2021, tại Vĩnh Phúc có 10 tổ chức phi chính phủ nước ngoài (PCPNN) và 03 tổ chức quốc tế đang triển khai dự án trên địa bàn tỉnh, với tổng số 17 dự án và phi dự án. Các dự án chủ yếu triển khai trên các lĩnh vực nông nghiệp (04 dự án), y tế (03 dự án), bảo tồn động vật hoang dã (01 dự án), tài chính vi mô (01 dự án), giáo dục (01 dự án), và ác dự án/phi dự án liên quan đến các vấn đề xã hội khác.
Ngoại giao văn hoá: Vĩnh Phúc luôn tăng cường gắn kết ngoại giao văn hoá với ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị, ngoại giao nhân dân nhằm nâng cao chất lượng cũng như làm phong phú thêm các hoạt động ngoại giao văn hoá. Một số các hoạt động ngoại giao văn hoá điển hình được tổ chức trên địa bàn tỉnh bao gồm: tổ chức các chương trình giao lưu văn hoá, tuần chiếu phim Ấn Độ, đêm Festival nhạc mới Á-Âu, xuất bản ấn phẩm, chuyên san giới thiệu về tỉnh,… nhằm quảng bá, giới thiệu các nét đẹp văn hoá, tiềm năng du lịch, sự kiện văn hoá của Vĩnh Phúc đến các nước bạn, cũng như tăng cường sự hiểu biết về văn hoá của các quốc gia khác. Thực hiện Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 30/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2030, ngày 27 tháng 9 năm 2022, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Kế hoạch số 242/KH-UBND về Thực hiện Chiến lược ngoại giao văn hoá tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2030.
Công tác hỗ trợ kiều bào Việt Nam tại nước ngoài và người nước ngoài sinh sống trên địa bàn tỉnh: Công tác hỗ trợ người nước ngoài và thân nhân sinh sống trên địa bàn tỉnh, cũng như hỗ trợ người dân Vĩnh Phúc đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài luôn được Vĩnh Phúc luôn quan tâm thực hiện, nhất là trong giai đoạn vừa qua dưới sự ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch COVID-19. Tỉnh luôn tích cực phối hợp với Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng nắm bắt thông tin, tham mưu xử lý kịp thời các vấn đề về công tác lãnh sự, hỗ trợ nhập cảnh, cách ly cho thân nhân chuyên gia lao động là người nước ngoài trên địa bàn tỉnh; đồng thời, đảm bảo thông tin liên lạc với các Đại sứ quán và Cục Lãnh sự kịp thời hỗ trợ công dân của tỉnh đang sinh sống ở nước ngoài gặp khó khăn do dịch bệnh, phối hợp đưa công dân về nước, thực hiện cách ly tập trung đối với người Việt Nam ở nước ngoài trở về nước, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
2.1. Phát triển hệ thống hạ tầng xã hội
Hạ tầng giáo dục, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học trên địa bàn tỉnh không ngừng được trang bị đồng bộ theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và được điều chỉnh phù hợp yêu cầu thực tế của từng cấp học, tạo cơ sở phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo của tỉnh. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm đầu tư đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đến năm 2019, toàn tỉnh Vĩnh Phúc đã có 100% trường công lập đạt chuẩn quốc gia. Tỷ lệ phòng học kiên cố/tổng số phòng học của tỉnh đạt mức cao: mầm non đạt 92,6%, tiểu học đạt 96,8%, trung học cơ sở đạt 98,2%, trung học phổ thông đạt 100%. Theo cấp học: tính tới năm học 2020-2021: 1) toàn tỉnh có 177 trường mầm non (tăng 7 trường so với năm 2010), trong đó có 163 trường công lập, 14 trường tư thục. Mỗi xã, phường có ít nhất 01 trường mầm non đáp ứng được nhu cầu giáo dục, nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ; 2) Về giáo dục phổ thông: tiểu học có 145 trường (giảm 30 trường so với năm 2010); cấp THCS có 148 trường (trong đó có 132 trường trung học cơ sở, 16 trường liên cấp tiểu học và trung học cơ sở (tăng 1 trường so với năm 2010); cấp THPT có 30 trường (giảm 07 trường so với năm 2010); 3) hệ thống giáo dục thường xuyên duy trì và hoạt động có hiệu quả với 8 trung tâm (01 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh, 07 trung tâm giáo dục nghề nghiệp-giáo dục thường xuyên cấp huyện). Mạng lưới phân bổ các cơ sở giáo dục trên địa bàn cơ bản phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của người dân. Đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học, tỉnh hiện có 07 trường cao đẳng (03 trường thuộc tỉnh, 04 trường thuộc các Bộ, ngành Trung Ương); 03 trường trung cấp (tư thục); 20 trung tâm giáo dục nghề nghiệp (10 trung tâm công lập, 09 trung tâm tư thục và 01 trung tâm có vốn đầu tư nước ngoài) và 06 cơ sở khác có hoạt động giáo dục nghề nghiệp (02 trường đại học, 02 cơ sở 2 của trường cao đẳng có trụ sở chính tại tỉnh khác, 01 doanh nghiệp và cơ sở công lập có dạy nghề). Hệ thống mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của tỉnh cơ bản đã được rà soát, sắp xếp theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo, quy mô đào tạo được mở rộng, đội ngũ giáo viên được tăng cường, chất lượng đào tạo được nâng lên đảm bảo đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp. Hạn chế lớn trong phát triển hạ tầng giáo dục của tỉnh chính là chưa phát triển rộng khắp hệ thống giáo dục ngoài công lập; trang thiết bị dạy học tại một số cơ sở giáo dục được trang cấp từ nhiều năm, trong nhiều giai đoạn khác nhau, mặc dù đã được quan tâm đầu tư bổ sung song vẫn thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn, chưa đồng bộ; công trình trường, lớp tại một số huyện được xây dựng đã lâu trong quá trình sử dụng chưa được bảo trì, sửa chữa đến nay đã xuống cấp, cần có phương án sửa chữa, nâng cấp, xây mới để phục vụ tốt việc dạy và học; … Nhìn chung nguồn lực huy động từ công tác xã hội hóa, nguồn lực tài chính từ ngân sách Nhà nước còn hạn chế so với nhu cầu phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh.
Hạ tầng y tế ngày càng được tăng cường. Trong giai đoạn 2016-2020, hệ thống y tế công lập tại tỉnh Vĩnh Phúc đã được đổi mới, sắp xếp thu gọn đầu mối nhằm tăng cường, tập trung các nguồn lực theo đúng tinh thần Nghị quyết 19/NQ- TƯ. Sau khi sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp giảm từ 35 đơn vị xuống còn 19 đơn vị. Mạng lưới khám, chữa bệnh từ cấp tỉnh đến cấp xã được tập trung đầu tư, nâng cấp. Hệ thống khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện gồm 7 bệnh viện tuyến tỉnh (2 bệnh viện đa khoa, 4 bệnh viện chuyên khoa và 1 Bệnh viện GTVT Sở y tế tiếp nhận năm 2021 từ Bộ ngành), 9 TTYT huyện/ thành phố, 136 trạm y tế xã/phường/thị trấn thuộc hệ thống sở y tế tỉnh Quản lý và các Bệnh viện Bộ ngành đóng trên địa bàn tỉnh (Bệnh viện Trung ương 74, bệnh viện Quân y 109). Mạng lưới y học cổ truyền được khuyến khích phát triển từ tuyến tỉnh đến huyện, xã. Các cơ sở khám chữa bệnh triển khai ngày càng nhiều các dịch vụ kỹ thuật y học cổ truyền, kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại trong điều trị góp phần điều trị hiệu quả, rút ngắn thời gian điều trị của người bệnh. Hiện có 1 bệnh viện tư nhân là Bệnh viện hữu nghị Lạc Việt với quy mô 380 giường bệnh.
Hạ tầng văn hóa được đầu tư hoàn thiện. Vĩnh Phúc là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hoá, là cái nôi của người Việt cổ, trung tâm của nước Văn Lang xưa. Hiện nay, với khoảng 40 dân tộc anh em cùng sinh sống, với phong tục, tập quán khác nhau càng thêm khẳng định những giá trị văn hoá đặc sắc, phong phú của tỉnh so với các địa phương khác. Hiện toàn tỉnh hiện có 1.303 di tích, trong đó có 514 di tích đã được xếp hạng. Một số di tích quốc gia đặc biệt gồm Tháp Bình Sơn (thị trấn Tam Sơn, huyện sông Lô), di tích Tây Thiên - Tam Đảo (xã Đại Đình, huyện Tam Đảo), … Bên cạnh bảo tồn các di tích, công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ sở tại Vĩnh Phúc luôn được các cấp ngành quan tâm. Vĩnh Phúc có 01 bảo tàng công lập là bảo tàng Vĩnh Phúc tại trung tâm Thành phố Vĩnh Yên. Hiện tỉnh có 1.367/1.384 thôn, tổ dân phố có nhà văn hoá, khu thể thao (đạt 98,9%), trong đó có 1.296 nhà văn hoá được xây mới, chỉnh trang, mở rộng với diện tích từ 500 m2 trở lên, có sân thể thao đơn giản. Hệ thống thư viện tại Vĩnh Phúc cũng được quan tâm đầu tư, với mạng lưới thư viện phát triển khá đồng đều. Ngoài thư viện tỉnh, Vĩnh Phúc hiện có có 8/9 thư viện cấp huyện, 119/137 thư viện xã, phường, thị trấn. Trung bình, thư viện tỉnh cấp 1.200 thẻ/năm với số lượng bạn đọc đạt 130.000 lượt; số lượt luân chuyển sách báo tại thư viện tỉnh đạt 550.000 lượt/năm; thư viện cơ sở là 965.000 lượt/năm. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, dụng cụ thi đấu, huấn luyện thể dục thể thao thành tích cao trên địa bàn tỉnh được tăng cường, môi trường rèn luyện được cải thiện; chế độ chính sách cho vận động viên, huấn luyện viên được thực hiện đủ. Vĩnh Phúc hiện có 06 sân vận động, 01 nhà thi đấu đa năng đạt tiêu chuẩn quốc tế, 07 nhà tập tại các huyện Bình Xuyên, Tam Dương, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc. Tại huyện Yên Lạc có 01 nhà thi đấu môn Bắn súng và cơ sở 2 của Trung tâm Huấn luyện thể thao quốc gia Hà Nội đặt tại huyện Tam Đảo. Tỉnh còn có 130 sân bóng đá đơn giản, hơn 200 sân bóng chuyền, gần 500 sân cầu lông. Mặc dù hạ tầng thể thao trên địa bàn tỉnh tương đối phong phú, đa dạng, tuy nhiên chất lượng cơ sở vật chất, hạ tầng còn nhiều hạn chế. Các sân vận động chủ yếu chỉ có mặt bằng, không đảm bảo quy cách, đã được xây dựng từ lâu; các nhà tập và sân vận động cấp huyện về cơ bản không đảm bảo quy cách, quy chuẩn kỹ thuật và quy mô để đào tạo vận động viên cũng như đáp ứng nhu cầu tập luyện, hưởng thụ của nhân dân trên địa bàn.
Hạ tầng an sinh xã hội và hạ tầng xã hội khác đều được quan tâm đầu tư. Về lao động, việc làm, hiện toàn tỉnh có 2 trung tâm dịch vụ việc làm và 2 doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm. Trong đó có 1 trung tâm trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Trung tâm đã triển khai tốt hoạt động sàn giao dịch việc làm định kỳ 4 phiên mỗi tháng, giúp kết nối cung - cầu lao động, giải quyết việc làm cho người dân. Trong lĩnh vực người có công, Vĩnh Phúc hiện có 01 Trung tâm Điều dưỡng, là Trung tâm Điều dưỡng Người có công Tam Đảo thành lập năm 2010 tại thị trấn Tam Đảo, huyện Tam Đảo. Mô hình hoạt động là kết hợp giữa điều dưỡng người có công và tổ chức hoạt động dịch vụ. Quy mô điều dưỡng được 120 người/đợt. Thời gian thực hiện khoảng 7 tháng/năm. Tổng năng lực điều dưỡng được khoảng 2.500 đối tượng, chưa đủ cung ứng so với nhu cầu, do vậy hàng năm vẫn phải tổ chức thực hiện điều dưỡng ở các địa điểm tỉnh ngoài. Hàng năm, Vĩnh Phúc đã hỗ trợ xây dựng hơn 100 căn nhà cho hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ đồng bào dân tộc về các công trình cấp nước nhỏ lẻ... Đã có 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo đủ điều kiện và có nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh được hỗ trợ vay vốn tín dụng ưu đãi từ Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh. Toàn tỉnh không có hộ nghèo ở nhà dột nát, nhà thiếu kiên cố; 100% người nghèo trong độ tuổi lao động có yêu cầu đều được hỗ trợ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm phù hợp. Đến hết năm 2019 toàn tỉnh không còn hộ nghèo thuộc đối tượng chính sách người có công; 100% các xã đạt tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo trong xây dựng nông thôn mới. Đối với hạ tầng bảo trợ xã hội, hiện nay Vĩnh Phúc có 02 trung tâm công lập thực hiện chức năng bảo trợ xã hội, gồm Trung tâm Công tác xã hội tỉnh Vĩnh Phúc, Trung tâm Nuôi dưỡng và Phục hồi chức năng cho người tâm thần Vĩnh Phúc; có 01 cơ sở trợ giúp xã hội do tư nhân thành lập hoạt động vì mục đích nhân đạo từ thiện; ngoài ra còn có cơ sở trợ giúp xã hội do tư nhân thành lập hoạt động mang tính chất dịch vụ, như nhà dưỡng lão dành cho người cao tuổi (Trung tâm Chăm sóc người cao tuổi Hồng Phúc). Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có 01 Trung tâm cai nghiện ma tuý được thành lập từ năm 1997.
2.2. Phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa và an sinh xã hội
2.2.1. Phát triển giáo dục và đào tạo
Quy mô mạng lưới trường, lớp về cơ bản được duy trì ổn định, đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh trên địa bàn. Tỷ lệ số phòng học kiên cố/ tổng số phòng học các cấp đều đạt hơn 90%, cụ thể: mầm mon đạt 92,6%, tiểu học đạt 96,8%, THCS đạt 98,2%, THPT đạt 100%.
Chất lượng giảng dạy không ngừng được cải thiện, nâng cao, Vĩnh Phúc luôn được xếp vào nhóm các tỉnh có chất lượng giáo dục dẫn đầu trong cả nước. Hiện toàn tỉnh 100% các trường đều đạt chuẩn theo cấp học, riêng THPT đạt 99,6% (còn 01 trường THPT tư thục còn thiếu nhà thể chất, phòng học bộ môn, máy tính). Tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi đều cao (tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%; tỷ lệ học sinh THCS đi học đúng độ tuổi đạt 96,45%, tỷ lệ trẻ từ 11-14 tuổi hoàn thành chương trình THCS đạt 99,1%; tỷ lệ học sinh THPT đi học đúng độ tuổi đạt 98,7%).
Chất lượng giáo viên cũng được tăng cường. Năm học 2020-2021: 92,3% giáo viên mầm non có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo theo quy định Luật Giáo dục 2019 (cao hơn 18,6% so với trung bình chung cả nước là 73,7%); 70,4% cán bộ quản lý, giáo viên tiểu học đạt chuẩn trình độ đào tạo (cao hơn 6,1% so với trung bình chung cả nước là 64,26%); 89,49% cán bộ quản lý, giáo viên THCS đạt chuẩn trình độ đào tạo (cao hơn so với trung bình chung cả nước là 78,45%); 100% cán bộ quản lý, giáo viên THPT đạt chuẩn trình độ đào tạo trở lên, trong đó 35% có trình độ trên chuẩn. Về số lượng giáo viên, hiện nay Vĩnh Phúc nhìn chung còn thiếu nhiều giáo viên, cán bộ quản lý. Số giáo viên, cán bộ quản lý mầm non còn thiếu nhiều so với định mức quy định, số lượng giáo viên chưa đủ đáp ứng yêu cầu dạy và học 2 buổi/ngày (tỷ lệ giáo viên/cấp học ở cấp tiểu học là 1,28, ở cấp THCS là 1,77). Với cấp THPT, số giáo viên tuy đủ về định mức nhưng thực tế lại xảy ra tình trạng thừa thiếu cục bộ xét theo cơ cáu môn học.
Chất lượng giáo dục thường xuyên và chất lượng học viên theo học ngày càng được cải thiện. Tỷ lệ học viên đỗ tốt nghiệp dao động từ 93% đến 98%. Về đội ngũ giáo viên, hiện nay phần lớn giáo viên của các trung tâm là giáo viên cơ hữu, giáo viên hợp đồng chiếm tỉ lệ từ 30- 37%; 100% giáo viên đều đạt chuẩn và có từ 17,3-22,3% giáo viên trên chuẩn. Tỷ lệ số phòng học kiên cố/tổng số phòng học của các trung tâm giáo dục thường xuyên, GDNN-GDTX tính đến năm học 2020-2021 là 68,1% (96 phòng học), 21,3% bán kiên cố (30 phòng học) và 10,6% phòng học tạm (15 phòng học).
Về giáo dục nghề nghiệp: công tác tuyển sinh, đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao đẳng trên địa bàn tình được thực hiện linh hoạt với nhiều hình thức phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động. Kết quả là trong giai đoạn 2015-2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của Vĩnh Phúc tăng hàng năm, từ 22,3% năm 2015 lên 28,6% năm 2020 (cao hơn tỷ lệ trung bình của toàn quốc là 24,1%, và nằm ở mức cao trong khu vực đồng bằng sông Hồng, chỉ sau Hà Nội, Quảng Ninh và Ninh Bình). Về chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, trên 70% đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý trong các cơ sở GDNN thuộc tỉnh quản lý có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên.
Đối với giáo dục đại học, mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 không có sự thay đổi, vẫn là những cơ sở giáo dục đại học thuộc Trung ương quản lý, với 04 cơ sở công lập (Trường Đại học Sư phạm 2, Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp, Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải, Đại học Kiến trúc Hà Nội) và 01 trường tư thục (Đại học Trưng Vương).
2.2.2. Phát triển y tế
Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân luôn được các cấp, ngành Vĩnh Phúc quan tâm thực hiện. Hiện nay 136/136 trạm y tế trên địa bàn tỉnh đạt 100% có bác sỹ làm việc. Tỷ lệ người dân được khám và quản lý sức khoẻ cá nhân đạt 94,7%, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 93,8%. Trung bình hàng năm các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh triển khai đưa vào ứng dụng từ 130 đến 150 dịch vụ kỹ thuật mới, một số kỹ thuật vượt tuyến, chuyên sâu được thực hiện tại bệnh viện đa khoa tỉnh. Quy mô và chất lượng cung ứng dịch vụ y tế của tỉnh tăng theo thời gian. Tính đến hết năm 2021, tổng số giường bệnh của các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh là 4.639 giường, tăng 2489 giường (tăng 215,76%) so với năm 2010. Trong đó số Giường bệnh công lập trực thuộc Sở Y tế trên địa bàn tỉnh là 4.260 giường ( số giường bệnh tuyến tỉnh là 2.690 giường, tuyến huyện là 15.701 giường) chiếm 91,83% tổng số giường bệnh; Giường bệnh tại các bệnh viện Bộ ngành đóng trên địa bàn tỉnh là 149 giường, chiếm 3,21% tổng số giường bệnh toàn tỉnh; Giường bệnh tư nhân trên toàn tỉnh là 230 giường chiếm 4,69% số giường bệnh toàn tỉnh. Công suất sử dụng giường bệnh hàng năm tăng từ 101-126% so với kế hoạch, số bệnh nhân điều trị nội trú hàng năm tăng từ 109-148%. Tỷ lệ số giường bệnh/vạn dân năm 2021 đạt 39,1 giường bệnh/vạn dân, tăng 18,1 giường so với năm 2010 và tăng 7,9 giường so với năm 2017, cao hơn mức trung bình toàn quốc 121,6 giường (tỷ lệ trung bình toàn quốc là 26,5 giường bệnh/vạn dân).
Đội ngũ cán bộ, nhân lực y tế Vĩnh Phúc không ngừng được tăng cường về số lượng và trình độ chuyên môn. Số bác sĩ/vạn dân năm 2020 là 14 bác sĩ/vạn dân (tăng 7 bác sĩ so với năm 2010), cao hơn bình quân chung cả nước (8,8 bác sĩ/vạn dân). Số dược sĩ đại học/vạn dân năm 2020 đạt 4 dược sĩ đại học/vạn dân. Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ đạt 100%. Duy trì 100% số trạm y tế xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh; 100% thôn/bản có nhân viên y tế hoạt động; 100% xã/phường/thị trấn có cán bộ dân số và thôn, bản có cộng tác viên dân số.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hệ thống y tế của tỉnh hiện vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như tình trạng quá tải do nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân ngày một tăng cao, đặc biệt là tại các bệnh viện tuyến tỉnh; công suất sử dụng giường bệnh luôn trên 100%, gây áp lực và ảnh hưởng đến chất lượng khám, chữa bệnh; thiếu cán bộ có trình độ chuyên khoa sâu, thiếu bác sĩ, nhân lực chất lượng cao; tỷ lệ bác sĩ, dược sĩ, giường bệnh/vạn dân còn thấp so với một số tỉnh lân cận,….
2.2.3. Phát triển văn hoá
Vĩnh Phúc là địa phương có nhiều di tích lịch sử, văn hoá có giá trị lớn về kiến trúc và nghệ thuật. Trong thời gian qua, 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh có di tích đã xếp hạng đều thành lập Ban quản lý di tích cấp xã. Hệ thống di tích của Vĩnh Phúc so với các tỉnh lân cận không lớn chỉ 1.303 di tích, trong khi thành phố Hà Nội (5.175 di tích), Bắc Giang (2.237 di tích), tuy nhiên, lại vượt trội hơn hẳn về số lượng di tích được xếp hạng, có tới 506/1.303 di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh.
Về di sản văn hoá phi vật thể, đến cuối năm 2020, toàn bộ trữ lượng di sản văn hoá phi vật thể của Vĩnh Phúc được kiểm kê trên cả 7 loại hình di sản, bao gồm: Tiếng nói, chữ viết của dân tộc ít người; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội truyền thống; Nghề thủ công truyền thống; Tri thức dân gian. Tổng số lượng di sản văn hoá phi vật thể được ghi nhận là 571 di sản trên tổng số 135 xã/phường/thị trấn. Trong đó, có 526 di sản đang tồn tại và duy trì tốt; 16 di sản đang tồn tại nhưng có nguy cơ mai một; 29 di sản đã bị mai một.
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng Sông Hồng với các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, giàu tiềm năng phát triển du lịch. Một số tài nguyên du lịch tự nhiên nổi tiếng của Vĩnh Phúc có thể kể đến như khu danh thắng Tây Thiên, nơi thờ Quốc Mẫu Năng Thị Tiêu thời Vua Hùng; Đền thờ Tả Tướng Quốc Trần Nguyên Hãn ở xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch; Chùa Hà Tiên ở xã Định Trung, Cụm đình Hương Canh, với kiến trúc hoành tráng bằng gỗ với hơn 300 năm tuổi; Khu du lịch Tam Đảo; khu vực đầm Vạc, Đại Lải, Vườn cò Hải Lựu; … Ngoài ra, Vĩnh Phúc còn có thể khai thác các nguồn tài nguyên nhân văn khác phục vụ du lịch, như ca múa nhạc dân tộc, các món ăn từ lâm, thổ sản phong phú của địa phương.
2.2.4. An sinh xã hội
Các lĩnh vực giảm nghèo và an sinh xã hội luôn được các cấp ngành Vĩnh Phúc quan tâm thực hiện. Chính sách giảm nghèo, hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, người có công, gia đình chính sách được thực hiện đúng, đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách theo quy định. Công tác giải quyết chính sách và chi trả chế độ BHXH, BHYT được quan tâm, quyền lợi của người lao động, người tham gia luôn được đảm bảo kịp thời. Ước năm 2021, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH đạt 36,7%; tỷ lệ lực lượng lao động tham gia Bảo hiểm thất nghiệp đạt 33% và tỷ lệ dân số tham gia BHYT đạt 93,5%. Thu nhập của người dân Vĩnh Phúc không ngừng được cải thiện trong giai đoạn 2016-2020. Thu nhập bình quân/người/tháng của người dân Vĩnh Phúc năm 2020 là 4,29 triệu đồng/người/tháng, tăng 1,5 lần so với năm 2016 (2,86 triệu đồng/người/tháng). Năm 2021, thu nhập bình quân của người dân Vĩnh Phúc đạt 4,5 triệu đồng/lao động, tăng 5,15% so với năm 2020.
Đối với công tác bảo trợ xã hội, tính đến hiện tại, số người có nhu cầu trợ giúp xã hội và sử dụng các dịch vụ của công tác xã hội, trợ giúp xã hội ở Vĩnh Phúc rất lớn. Năm 2020 có trên 190.000 người cần hỗ trợ, giúp đỡ của công tác xã hội, trợ giúp xã hội, chiếm 17,5 % dân số, bao gồm: (1) 19.725 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật và trẻ em sống trong các hộ gia đình nghèo, cận nghèo; (2) 62.337 người người khuyết tật, chiếm 6,3% dân số toàn tỉnh; (3) 13.433 (48.358 khẩu) thuộc diện nghèo, cận nghèo; (4) Hàng ngàn người là đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn; (5) 49.622 người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp nào khác, trong đó: 1.368 người cao tuổi cô đơn, sống một mình; (6) Hơn 3.500 người nghiện ma tuý và hàng trăm người sau cai nghiện sống tại cộng đồng. Năm 2021, tác động của dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình lao động, giải quyết việc làm, giảm nghèo và an sinh xã hội của tỉnh. Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo triển khai các biện pháp hỗ trợ hỗ trợ nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ đời sống người dân cũng như ổn định lao động cho các doanh nghiệp.
2.3. Phát triển khoa học và công nghệ
Vĩnh Phúc luôn quan tâm phát triển KH&CN. Các chủ trương, chính sách về KH&CN của Đảng, Nhà nước đã từng bước được cụ thể hóa bằng các đề án, chương trình ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đến cuối năm 2021, toàn tỉnh có 24 Tổ chức KH&CN, trong đó có 11 tổ chức KH&CN công lập chủ yếu là các trung tâm sự nghiệp trực thuộc các Sở, ngành của tỉnh; có 02 Tổ chức KH&CN trực thuộc Sở Khoa học và công nghệ. Hiện nay, các phòng thí nghiệm nghiên cứu KH&CN của tỉnh chủ yếu tập trung ở 02 tổ chức KH&CN công lập là Trung tâm Ứng dụng và đổi mới sáng tạo và Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Chi Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.
Kinh phí đầu tư cho KH&CN gồm kinh phí sự nghiệp, đầu tư phát triển KH&CN và CNTT tại Vĩnh Phúc đạt mức trung bình trong cả nước (0,8%), chưa đạt mức 2% tổng chi NSNN theo tiêu chí tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI. Trong giai đoạn 2016-2020, tổng ngân sách cấp cho các tổ chức chi thường xuyên là 114.010,75 triệu đồng; tổng giá trị tài sản cố định của các tổ chức là 391.520,6 triệu đồng; diện tích đất giao cho các tổ chức là khoảng 78.92ha trong đó diện tích 3,65ha sử dụng là văn phòng, nhà xưởng, phòng thí nghiệm của các tổ chức. Nhìn chung cơ sở vật chất trang thiết bị tại các tổ chức KH&CN còn tương đối khiêm tốn, chưa đồng bộ, hiện đại và còn hạn chế do việc đầu tư còn hạn hẹp.
Kinh phí sự nghiệp KH&CN tại Vĩnh Phúc chủ yếu đầu tư nghiên cứu khoa học và nghiên cứu ứng dụng cho các lĩnh vực: các đề tài, dự án, đề án, chương trình, kế hoạch khung. Tính đến năm 2020, kinh phí sự nghiệp KH&CN giai đoạn 2011-2020 là 525,36 tỷ đồng. Kinh phí đầu tư phát triển KH&CN toàn tỉnh giai đoạn 2011-2020 là 335,29 tỷ đồng. Thông qua các dự án đầu tư, tiềm lực KH&CN (cơ sở vật chất, trang thiết bị) của các cơ quan, đơn vị ngày càng được tăng cường, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, hoặc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ. Tính đến 15/4/2020, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 04 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN.
Trong giai đoạn 2016-2020, hoạt động hỗ trợ đổi mới sáng tạo cũng luôn được Vĩnh Phúc quan tâm thực hiện, thể hiện qua việc ban hành các Kế hoạch, nghị quyết, văn bản thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh như Kế hoạch 105/KH-UBND ngày 26/6/2020 thực hiện Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; Nghị quyết số 18/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 về quy định một số nội dung và mức chi để thực hiện để thực hiện Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc; văn bản số 1549/HD-UBND ngày 10/03/2021 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc hướng dẫn thực hiện Đề án 844 và Nghị quyết số 18/2020/NQ-HĐND ngày 14/12/2020 của HĐND tỉnh về quy định một số nội dung và mức chi thực hiện Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc đã có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh hoạt động, đầu tư và đổi mới công nghệ thông qua Quỹ phát triển KH&CN tỉnh. Quỹ phát triển KH&CN được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2010, hiện quỹ đang quản lý nguồn vốn khoảng 150 tỷ đồng. Thông qua các dự án cho vay vốn, hoạt động của quỹ đã góp phần giúp doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được hưởng ưu đã về thuế; tăng cường tiềm lực KH&CN cho doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và hoạt động thực hiện các nhiệm vụ KH&CN; đẩy nhanh tốc độ cải tiến đổi mới công nghệ (mua máy móc, thiết bị kèm theo bằng công nghệ tiên tiến hơn); phục vụ hoạt động chuyển đổi số của doanh nghiệp,…Kết quả nhận thấy tốc độ giá trị gia tăng của doanh nghiệp khu vực trong 10 năm qua là 9,05%/năm; giá trị do tiến bộ KH&CN tăng 4,75%/năm; môi trường làm việc được cải thiện.
3. Bối cảnh đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
Quy mô vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ngày càng tăng và tập trung nhiều hơn cho hoạt động đầu tư phát triển. Đến năm 2021, tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh đạt trên 45,7 nghìn tỷ đồng (theo giá hiện hành), cao gấp 1,96 lần so với năm 2015; tốc độ tăng tổng vốn đầu tư bình quân toàn giai đoạn 2016-2021 đạt 9,62%/năm[1], cao hơn tốc độ tăng của cả nước là 6,81%/năm[2]. Cơ cấu vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần quy mô vốn cho đầu tư XDCB; đầu tư mua sắm TSCĐ không qua XDCB; và đầu tư sửa chữa, nâng cấp TSCĐ; trong khi giảm dần vốn đầu tư cho bổ sung vốn lưu động. Tốc độ tăng vốn đầu tư XDCB bình quân giai đoạn 2016-2021 đạt 10,7%/năm, cao hơn tốc độ tăng bình quân cả nước là 7,05%/năm; của vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua XDCB là 11,7%/năm; của vốn đầu tư sửa chữa nâng cấp TSCĐ là 24,2%/năm[3]. Nhờ đó, đến năm 2021, quy mô vốn đầu tư cho XDCB chiếm 70,3% tổng vốn đầu toàn tỉnh; đối với vốn đầu tư mua sắm TSCĐ không qua XD là 27,8%[4]; tỷ lệ tương ứng của cả nước là 72,3% và 18%.
Sự tăng trưởng tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh giai đoạn 2016-2021 chủ yếu đến từ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước; trong khi giảm dần sự phụ thuộc vào vốn đầu tư từ khu vực nhà nước. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2021 của nguồn vốn khu vực nhà nước, vốn khu vực ngoài nhà nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lần lượt là 4,6%/năm; 3,6%/năm; và 20,7%/năm[5]. Nhờ đó, đến năm 2021, tỷ trọng nguồn vốn khu vực nhà nước chiếm 19,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh; vốn khu vực ngoài nhà nước chiếm 35,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 45,4%[6]. Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh cao hơn rất nhiều so với mức bình quân của cả vùng Đồng bằng sông Hồng là 19,2%[7] và của cả nước là 15,8%. Mặc dù tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn đầu tư từ hai khu vực là khu vực ngoài nhà nước và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng tốc độ tăng của vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước thấp hơn đáng kể so với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, cho thấy sự phát triển hạn chế của khu vực doanh nghiệp nội địa.
Nguồn vốn từ khu vực nhà nước chủ yếu đến từ nguồn vốn ngân sách nhà nước; trong khi đó nguồn vốn vay và vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng không đáng kể. Đặc biệt, quy mô vốn ngân sách nhà nước có sự gia tăng nhanh chóng trong năm 2020, chủ yếu phục vụ cho hoạt động ứng phó với đại dịch COVID-19 trên địa bàn tỉnh; tốc độ tăng bình quân vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2021 đạt 4,1%/năm; nhờ đó đến năm 2021, tỷ trọng nguồn vốn này chiếm 85,3% tổng vốn khu vực nhà nước. Trong khi đó, tỷ trọng nguồn vốn vay của tỉnh giảm mạnh, đến năm 2021 chỉ còn chiếm 0,5% tổng vốn khu vực nhà nước (năm 2015 là 10,3%); tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016- 2021 là -37,2%/năm. Vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng ngày càng giảm trong tổng vốn khu vực nhà nước và đến năm 2021 doanh nghiệp nhà nước của tỉnh đã thoái toàn bộ nguồn vốn này ra khỏi hoạt động đầu tư.
Đối với khu vực ngoài nhà nước, nguồn vốn của tổ chức doanh nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng giảm dần, phần nào phản ánh sự phát triển hạn chế của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước trên địa bàn tỉnh. Tỷ trọng vốn của tổ chức doanh nghiệp đã giảm mạnh từ 37,1% vốn khu vực ngoài nhà nước năm 2015 xuống còn 11,9% năm 2021; tốc độ tăng bình quân nguồn vốn này giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 3,2%/năm, rất thấp so với mức tăng trưởng vốn bình quân chung của tỉnh là 11,1%/năm. Riêng năm 2021, quy mô vốn khu vực doanh nghiệp bị thu hẹp lại, giảm 66% so với năm 2020, khiến tốc độ tăng bình quân của nguồn vốn này trong giai đoạn 2016-2021 là -14,2%/năm. Trong khi đó, quy mô vốn của dân cư tăng nhanh chóng; tỷ trọng tăng từ 62,9% (năm 2015) lên 88,1% (năm 2021); tốc độ tăng giai đoạn 2016-2020 đạt 11%/năm. Năm 2021, nguồn vốn khu vực dân cư tiếp tục tăng 2,75% so với năm 2020, khiến tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2021 của nguồn vốn này đạt 9,5%/năm. Đây là điểm khác biệt của tỉnh Vĩnh Phúc so với các tỉnh phát triển nhanh với quy mô lớn khác trong vùng ĐBSH như Hà Nội (tỷ trọng của vốn tổ chức, doanh nghiệp chiếm tỷ trọng 82,7% vốn khu vực ngoài nhà nước năm 2020), Hải Phòng (75%), Quảng Ninh (68,7%), Bắc Ninh (48,5%). Khu vực dân cư có tỷ trọng vốn lớn của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ cho thấy những hạn chế trong việc mở rộng hoạt động sản xuất với quy mô lớn hơn, vốn dân cư nhỏ lẻ, manh mún, khó trong áp dụng khoa học kỹ thuật, không đủ để đầu tư sản xuất lớn, công nghệ cao. Nhưng đây cũng cho thấy vẫn còn dư địa để chuyển đổi hoạt động kinh doanh hộ gia đình lên hình thức doanh nghiệp. Do đó, cần tạo lập môi trường kinh doanh và chính sách thuận lợi để thu hút và hướng dòng vốn của khu vực dân cư vào hoạt động sản xuất - kinh doanh trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Vốn đầu tư toàn tỉnh tập trung chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (cũng là ngành thu hút nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất) và hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có tỷ trọng quy mô đầu tư lớn nhất so với các ngành kinh tế khác, đến năm 2021 chiếm 43,6% tổng quy mô vốn đầu tư toàn tỉnh. Trong giai đoạn 2016-2021, tốc độ tăng trưởng bình quân vốn đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến chế tạo là 23%/năm; của hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình là 12,9%/năm; nhờ đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu cho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với 382/432 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực lũy kế đến hết năm 2021; tiếp đến là ngành vận tải, kho bãi với 12 dự án; hoạt động kinh doanh bất động sản với 5 dự án. Bình quân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký cho một dự án trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 16,7 triệu USD/dự án; trong ngành vận tải, kho bãi là 16,5 triệu USD/dự án; trong hoạt động kinh doanh bất động sản là 43,1 triệu USD/dự án. Điều này cho thấy ngành công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn là ngành thế mạnh tiềm năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh; bên cạnh đó, ngành kinh doanh bất động sản của tỉnh đang trở thành một điểm đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư cho cho các dịch vụ y tế, giáo dục trên địa bàn tỉnh còn tương đối hạn chế; hoạt động kinh doanh bất động sản có sự tăng trưởng nóng trong năm 2020, nhưng đã giảm nhiệt trong năm 2021. Tổng quy mô vốn đầu tư cho 03 ngành, gồm: hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội, trên địa bàn tỉnh còn tương đối hạn chế, chỉ chiếm tổng tỷ trọng là 7,14% tổng vốn đầu tư toàn tỉnh năm 2015; đến cuối năm 2021 giảm xuống chỉ còn 5,03%. Tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành cũng có xu hướng giảm trong giai đoạn 2015-2021, ngoại trừ hoạt động y tế và hoạt động trợ giúp xã hội để ứng phó với đại dịch COVID-19. Cụ thể, tỷ trọng này của hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ giảm từ 1,1% xuống 0,4% (tốc độ vốn đầu tư của ngành này bình quân đạt -7,2%/năm); của hoạt động giáo dục và đào tạo giảm từ 4,0% xuống 2,4% (tốc độ tăng là 0,6%/năm); trong khi của y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng nhẹ từ 2,1% lên 2,2% (tốc độ tăng là 12,8%/năm). Quy mô vốn đầu tư cho ngành kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh giai đoạn 2015-2020, nhưng có tốc độ tăng trưởng quy mô vốn đầu tư lớn nhất so với tất cả các ngành kinh tế còn lại. Cụ thể, quy mô vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bất động sản đến năm 2019 đạt 909,3 tỷ đồng (theo giá hiện hành), cao gấp 23 lần so với năm 2015 (do tác động của dịch bệnh Covid-19, năm 2020 chỉ đạt 680 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng bình quân của vốn đầu tư cho ngành này giai đoạn 2016-2020 là 72,85%/năm; của cả nước đạt 7,74%/năm (nếu loại bỏ tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 113,88%/năm; của cả nước đạt 15,7%/năm). Tuy nhiên, đến năm 2021, quy mô vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bất động sản chỉ đạt 150,5 tỷ đồng (giá hiện hành), tốc độ tăng giảm 79% so với năm 2020, cho thấy sự hạ nhiệt nhanh chóng của hoạt động đầu tư thị trường bất động sản trên địa bàn tỉnh.
Hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho các ngành kinh tế không tương xứng với quy mô vốn đầu tư cho các ngành này. Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã tăng từ 18,4% (năm 2015) lên 35,2% (năm 2021). Tương tự, ngành kinh doanh bất động sản của tỉnh cũng có tỷ lệ này tăng mạnh từ 3,8% lên 47,3% (năm 2020) và giảm còn 10,2% (năm 2021), cho thấy giá trị gia tăng được tạo ra của ngành là rất nhỏ, trong khi quy mô vốn đầu tư vào ngành này tăng mạnh[8]. Thực trạng tương tự đối với hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình. Ngược lại, giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có tỷ lệ này giảm dần trong giai đoạn 2015-2021 dù vốn đầu tư cho các ngành này vẫn tăng trưởng dương qua từng năm. Cụ thể, tỷ lệ này của ngành giáo dục và đào tạo giảm từ 43,5% xuống 26,4%; của ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm từ 60,1% xuống 41,5%. Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư vào các ngành dịch vụ này cao hơn so với các ngành khác và do đó cần hướng dòng vốn đầu tư từ khu vưc ngoài nhà nước, đặc biệt là khu vực dân cư, vào tăng cường đầu tư cho các ngành dịch vụ này.
Sự phụ thuộc ngày càng lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tăng trưởng kinh tế và thực trạng nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước, đặc biệt là khu vực dân cư, chưa được huy động và sử dụng hiệu quả là hạn chế cấp bách cần phải giải quyết, đặt ra yêu cầu cơ cấu lại nguồn lực vốn đầu tư của tỉnh. Qua phân tích bối cảnh đầu tư trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2016-2021, có thể thấy rằng động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh đang phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, đầu tư từ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đang có xu hướng lấn át nhiều hơn so với đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước. Việc phụ thuộc lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tạo rủi ro cho sự tăng trưởng kinh tế tỉnh. Mặt khác, nguồn vốn từ tổ chức doanh nghiệp trong nước trên địa bàn tỉnh còn hạn chế do sự khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp; trong khi nguồn vốn từ khu vực dân cư chưa được huy động và sử dụng hiệu quả. Điều này được thể hiện khi mà tỷ trọng vốn đầu tư cho hoạt động làm thuê trong các hộ gia đình, sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ tự tiêu dùng của hộ gia đình chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh, nhưng giá trị gia tăng do hoạt động này tạo ra rất hạn chế. Do đó, huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong dân cư là nhiệm vụ cấp bách của tỉnh trong giai đoạn phát triển tới. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh giai đoạn 2021-2025 cũng đã đặt ra mục tiêu phải thu hút thêm vốn đầu tư DDI trong 5 năm là 20-25 nghìn tỷ đồng. Để đạt được mục tiêu trên, việc thúc đẩy huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong dân cư thông qua việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách huy động và sử dụng là cần thiết.
1. Thực trạng huy động vốn từ khu vực ngoài nhà nước
Có 4 kênh huy động vốn đầu tư trong dân cư cho phát triển kinh tế xã hội gồm:
(1) Huy động tiền tiết kiệm trong dân cư thông qua các ngân hàng, ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp vay để phát triển sản xuất kinh doanh;
(2). Huy động vốn thông qua chính sách khuyến khích đầu tư (xã hội hóa) đối với các lĩnh vực y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa, thể thao, môi trường,…
(3). Đối với công cụ (kênh) trái phiếu chính quyền địa phương: huy động vốn trong dân để đầu kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội;
(4). Chính sách ưu đãi đầu tư: thông qua các chính sách tư đãi đầu tư của nhà nước để khuyến kích các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh đối với các lĩnh vực nhà nước khuyến khích đầu tư.
(5) Huy động vốn từ dân cư thông qua các chính sách về hợp tác công tư (PPP).
Cụ thể các kênh huy động vốn dân cư như sau:
1.1. Đối với công cụ (kênh) tiền gửi ngân hàng
1.1.1. Chính sách huy động tiền gửi ngân hàng
Tiền gửi ngân hàng là tiền của cá nhân hay tổ chức gửi vào ngân hàng dưới các hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc lẫn lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận của các bên. Đây là một kênh huy động tài chính phổ biến. Ngân hàng thương mại là loại hình định chế tài chính trung gian hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là loại định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường, góp phần tạo lập và cung ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế -xã hội phát triển. Theo đó, vai trò của ngân hàng thể hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Đối với khách hàng là người gửi tiền, họ sẽ thu lợi từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình dưới hình thức tiền lãi, an toàn tiền gửi, tiện ích. Với người đi vay, giúp cho các chủ thể trong nền kinh tế thoả mãn cầu vốn tạm thời thiếu hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời tiết kiệm chi phí, thời gian, tiện lợi, an toàn và hợp pháp. Ngân hàng được hưởng lợi từ việc chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay, đồng thời góp phần tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế. Chức năng điều hòa vốn này góp phần quan trọng trong việc sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, chức năng trung gian thanh toán. Chức năng này, ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng trích tiền trên tài khoản trả cho người thụ hưởng hoặc nhận tiền vào tài khoản. Đối với người gửi tiền có thể thực hiện thanh toán một cách nhanh chóng, an toàn, hiệu quả. Đối với ngân hàng, tạo điều kiện thu hút nguồn vốn tiền gửi thông qua cung ứng một dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt có chất lượng cao. Đối với nền kinh tế, chức năng này lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả quá trình tái sản xuất xã hội, đồng thời nó cũng giúp làm giảm khối lượng tiền mặt dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt.
Thứ ba, chức năng tạo tiền. Với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, ngân hàng vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đi vay. Sau đó, số tiền đó lại được đưa vào nền kinh tế thông qua hoạt động mua hàng hóa, trong khi những người có số dư tài khoản tiếp lại tiêu dùng thông qua các hình thức thanh toán qua thẻ,…
Cuối cùng, chức năng thủ quỹ. Ngân hàng giúp cho khách hàng đảm bảo an toàn tài sản và giúp sinh lời được đồng vốn tạm thời thừa. Đối với nền kinh tế, chức năng thủ quỹ khuyến khích tích lũy trong xã hội đồng thời tập trung nguồn vốn tạm thời thừa để phục vụ phát triển kinh tế.
Hoạt động ngân hàng thương mại được quy định cụ thể tại:
- Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 và Luật số 17/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng 2010 và Dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2022.
- Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 ngày 18/06/2012 và Dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi năm 2022.
- Luật phòng chống rửa tiền số 07/2012/QH13 ngày 18/06/2012 và Dự thảo Luật phòng chống rửa tiền sửa đổi năm 2022.
- Pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh ngoại hối ngày 18/03/2013.
- Quyết định 2195/QĐ-TTg ngày 06/12/2011 phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020.
- Quyết định 986/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/08/2018 về Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trong đó có mục tiêu phấn đấu giảm tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đạt mức dưới 7,5%vào năm 2020 và mức 5% vào năm 2030; từ đó giảm dần tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng tín dụng, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ để chậm nhất đến năm 2030 cơ bản khắc phục tình trạng đô la hóa nền kinh tế.
- Quyết định 149/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/01/2020 về phê duyệt Chiến lược phát triển tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Một số mục tiêu đến cuối năm 2025 liên quan đến huy động tiền gửi của NHTM là: ít nhất 20 chi nhánh, PGD của NHTM/10.000 người trưởng thành; ít nhất 50% tổng số xã có điểm cung ứng dịch vụ tài chính (chi nhánh, PGD của TCTD và đại lý ngân hàng, ngoại trừ điểm cung ứng dịch vụ tài chính của NHCSXH); ít nhất 25-30% người trưởng thành gửi tiết kiệm tại TCTD.
- Quyết định 2545/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/12/2016 về phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 với các mục tiêu đến cuối năm 2020: tỷ trọng tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 10%; toàn thị trường có 300.000 POS với số lượng giao dịch đạt 200 triệu giao dịch/năm; 70% người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản tại ngân hàng.
- Quyết định 1813/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/10/2021 về phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 và các Nghị định, văn bản liên quan: Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 và Nghị định 80/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 sửa đổi một số điều của Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt và Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP; Công văn hướng dẫn số 5786/NHNN-TT ngày 19/08/2022; Công văn số 5865/NHNN-TT ngày 24/08/2022.
- Nghị định số 160/2006 ngày 28/12/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại hối.
- Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/06/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi và Dự thảo Chiến lược phát triển bảo hiểm tiền gửi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
- Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng chống rửa tiền.
- Nghị định 117/2018/NĐ-CP ngày 11/09/2018 về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Thông tư số 04/2011/TT-NHNN ngày 10/03/2011 của Ngân hàng Nhà nước và Thông tư số 04/2022/TT-NHNN ngày 16/06/2022 về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Thông tư số 31/2014/TT-NHNN ngày 11/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 35/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định về phòng, chống rửa tiền.
- Thông tư 03/2014/TT-NHNN ngày 23/01/2014 quy định về quỹ đảm bảo an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân.
- Thông tư 16/2014/TT-NHNN ngày 01/08/2014 về việc hướng dẫn sử dụng tài khoản ngoại tệ, tài khoản đồng Việt Nam của người cư trú, không cư trú tại ngân hàng được phép.
- Thông tư số 48/2018/TT-NHNN ngày 31/08/2018 quy định về tiền gửi tiết kiệm và Thông tư số 49/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 quy định về tiền gửi có kỳ hạn.
- Thông tư số 14/2017/TT-NHNN ngày 29/09/2017 quy định về phương pháp tính lãi trong hoạt động nhận tiền gửi, cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng.
- Chỉ thị 01/CT-NHNN hàng năm trong giai đoạn 2016-2021 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả.
- Chỉ thị 02/CT-NHNN về các giải pháp cấp bách của ngành ngân hàng nhằm tăng cường phòng, chống và khắc phục khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19; Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/03/2020 và các chỉ đạo của NHNN về việc miễn, giảm phí thanh toán.
- Các văn bản quy định về lãi suất điều hành của NHNN (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng) trong giai đoạn 2016-2021 gồm: Quyết định số 496/QĐ-NHNN ngày 17/03/2014; Quyết định 1424/QĐ-NHNN ngày 07/07/2017; Quyết định số 1870/QĐ-NHNN ngày 12/09/2019; Quyết định 418/QĐ-NHNN ngày 16/03/2020; Quyết định số 918/QĐ-NHNN ngày 12/05/2020; Quyết định 1728/QĐ-NHNN ngày 30/09/2020; Quyết định số 1606/QĐ-NHNN ngày 22/09/2022; Quyết định số 1809/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022.
- Các văn bản quy định về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong giai đoạn 2016-2021: Thông tư 07/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014 quy định về lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại TCTD; Quyết định 498/QĐ-NHNN ngày 17/03/2014; Quyết định 2173/QĐ- NHNN ngày 28/10/2014; Quyết định 2415/QĐ-NHNN ngày 18/11/2019; Quyết định 419/QĐ-NHNN ngày 16/03/2020; Quyết định số 919/QĐ-NHNN ngày 12/05/2020; Quyết định số 1729/QĐ-NHNN ngày 30/09/2020; Quyết định số 1607/QĐ-NHNN ngày 22/09/2022; Quyết định số 1812/QĐ-NHNN ngày 24/10/2022.
- Các văn bản quy định về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ của tổ chức, cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong giai đoạn 2016-2021: Thông tư 06/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014; Quyết định 2172/QĐ-NHNN ngày 28/10/2014; Quyết định số 1938/QĐ-NHNN ngày 25/09/2015; Quyết định 2589/QĐ-NHNN ngày 17/12/2015. Theo đó, từ năm 2015 đến nay, mức lãi suất đối với tổ chức (trừ TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) là 0%/năm; mức lãi suất áp dụng đối với tiền gửi của cá nhân là 0%/năm.
Bám sát định hướng của NHNN Việt Nam, ngành ngân hàng trên địa bàn đã triển khai các chính sách, văn bản định hướng về huy động vốn và tín dụng, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu chung của ngành ngân hàng cả nước và địa bàn (kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu, đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả, góp phần ổn định kinh tế xã hội).
- Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 04/11/2011 về phát triển dịch vụ, du lịch tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2011-2030 với một số mục tiêu về phát triển hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) và huy động vốn giai đoạn 2011-2020 như tăng thêm 4-5 TCTD, mở thêm 4-5 quỹ tín dụng nhân dân (QTDND); huy động vốn tăng 30%/năm; dư nợ tăng 25-28%/năm.
- Nghị quyết số 57/NQ-HĐND ngày 21/12/2021 của HĐND tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022
- Kế hoạch 450/KH/UBND về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016-2020 tỉnh Vĩnh Phúc trong đó có mục tiêu tăng trưởng huy động vốn hàng năm đạt 20-22%/năm.
- Kế hoạch 204/KH/UBND về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2021-2025) tỉnh Vĩnh Phúc trong đó có mục tiêu huy động vốn hàng năm tăng 14-16%/năm trong giai đoạn 2021-2025, đến năm 2025 đạt 200.000 tỷ đồng, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng 12-14%/năm.
- Báo cáo số 545/BC-VPH của NHNN Tỉnh Vĩnh Phúc ngày 14/08/2019 về tổng kết hoạt động ngân hàng trên địa bàn giai đoạn 2016-2020 và xây dựng kế hoạch phát triển ngành ngân hàng giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu tăng trưởng huy động vốn đạt 15-18%/năm trong giai đoạn 2021-2025 (có điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn).
- Quyết định 344/QĐ-UBND về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trên địa bàn Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025.
- Báo cáo số 259/BC-VPH của NHNN Tỉnh Vĩnh Phúc ngày 01/04/2020 về kết quả thực hiện Đề án Đổi mới, phát triển kinh tế tập thể Vĩnh Phúc đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.
- NHNN Tỉnh Vĩnh Phúc ban hành văn bản cảnh báo rủi ro trong hoạt động quỹ tín dụng nhân dân.
- NHNN tỉnh Vĩnh Phúc ban hành kế hoạch triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021-2025 phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, trong đó yêu cầu các NHTM, các tổ chức trung gian thanh toán trên địa bàn đẩy mạnh ứng dụng giải pháp thanh toán mới, vừa đảm bảo an toàn hoạt động thanh toán, thanh toán điện tử, vừa góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay, hướng đến mục tiêu tài chính toàn diện.
1.1.2. Công tác triển khai phổ biến chính sách tới doanh nghiệp, dân cư
- Công tác phổ biến chính sách của NHNN, NHNN tỉnh Vĩnh Phúc, các NHTM, Quỹ TDND tới doanh nghiệp, dân cư được tiến hành kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, doanh nghiệp đồng thời góp phần tăng quy mô, chất lượng, hiệu quả huy động vốn trong nền kinh tế.
- Các NHTM trên địa bàn Vĩnh Phúc đã bước đầu triển khai thử nghiệm một số giải pháp xác thực khách hàng qua thẻ căn cước công dân gắn chíp như xác thực khách hàng tại quầy giao dịch khi khách hàng đến giao dịch, gửi tiền, ứng dụng xác thực khách hàng từ xa qua mạng Internet (eKYC) để mở tài khoản, thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử, ngân hàng số.
1.1.3. Đánh giá kết quả huy động vốn qua công cụ tiền gửi ngân hàng
Hoạt động của các TCTD trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc khá sôi động với hiện diện khá lớn (19 NH và 31 QTDND), đứng thứ 7/11 tỉnh Đồng Bằng ĐBSH về số lượng TCTD, đáp ứng nhu cầu tiền gửi và vốn tín dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của người dân. Cùng với đó, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển góp phần tăng khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ ngân hàng chính thống, thúc đẩy tài chính toàn diện.
Hình 1: Số lượng NHTM và quỹ tín dụng nhân dân tại Vĩnh Phúc và các tỉnh khu vực ĐBSH năm 2022 (%)
Nguồn: NHNN (9/2022)
Về hệ thống ngân hàng, trên địa bàn Vĩnh Phúc có 19 ngân hàng đang hoạt động, chiếm 6,4% tổng số ngân hàng của Vùng ĐBSH, trong đó, 01 NHCSXH, 01 NH hợp tác xã Việt Nam, 01 NH Nông nghiệp và PTNT, 01 NH 100% vốn nước ngoài, 15 Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) trong nước. Tính đến 31/12/2021, trên địa bàn Vĩnh Phúc có 108 chi nhánh và phòng giao dịch của các NHTM (trong đó có 28 chi nhánh cấp 1, tăng 9 chi nhánh so với năm 2011); 136 điểm giao dịch của NH chính sách xã hội. Mạng lưới ATM, POS được chú trọng phát triển về số lượng, quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ và mang lại nhiều tiện ích cho người sử dụng. Tính đến 31/12/2021, có 230 máy ATM và 840 POS được phân bổ ở địa bàn các huyện, thị trấn của tỉnh Vĩnh Phúc; tập trung ở các cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, điểm vui chơi, giải trí, hệ thống chuỗi bán lẻ, các cơ sở y tế, bệnh viện, trường học, tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận, thanh toán và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Top 5 NHTM lớn nhất trên địa bàn Vĩnh Phúc là NHTMCP Đầu tư và PT Việt Nam (BIDV), NHTMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank), NH Nông nghiệp & PTNT Việt Nam; NHTMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank); NHTMCP Hàng Hải Việt Nam (Maritimebank), trong đó, BIDV là NHTM có số lượng chi nhánh lớn nhất (21 chi nhánh), NHTMCP Kỹ thương có số lượng ATM lớn nhất (26 máy ATM); NHTMCP Hàng Hải và NHTMCP Kỹ thương là hai NHTM có lịch sử hoạt động lâu nhất tại địa bàn Vĩnh Phúc (31 năm và 29 năm).
Bảng 1: Hệ thống NHTM trên địa bàn Tỉnh Vĩnh Phúc
STT |
Tên NHTM |
Năm bắt đầu hoạt động tại Vĩnh Phúc |
Số lượng chi nhánh |
Số lượng ATM |
1 |
NHTMCP Đầu tư và PT Việt Nam |
2012 |
21 |
11 |
2 |
NHTMCP Công thương Việt Nam |
2009 |
20 |
25 |
3 |
NH Nông nghiệp & PTNT Việt Nam |
1996 |
19 |
20 |
4 |
NH Chính sách xã hội |
|
8 |
|
5 |
NHTMCP Kỹ thương Việt Nam |
1993 |
7 |
26 |
6 |
NHTMCP Hàng Hải Việt Nam |
1991 |
6 |
2 |
7 |
NHTMCP Ngoại thương Việt Nam |
1996 |
5 |
9 |
8 |
NH Shinhan Việt Nam |
2008 |
4 |
4 |
9 |
NHTMCP An Bình (ABBank) |
1993 |
3 |
3 |
10 |
NHTMCP Bắc Á |
1994 |
2 |
|
11 |
NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội |
2006 |
2 |
|
12 |
NHTMCP Quốc tế |
2018 |
2 |
3 |
13 |
NHTMCP Đông Á |
1992 |
2 |
1 |
14 |
NHTMCP Đông Nam Á |
1994 |
2 |
3 |
15 |
NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VP Bank) |
1993 |
2 |
3 |
16 |
NHTMCP Á Châu (ACB) |
1993 |
1 |
1 |
17 |
NH Hợp tác xã Việt Nam |
|
1 |
|
18 |
NHTMCP Quân đội |
1994 |
1 |
7 |
19 |
NHTMCP Sài Gòn (SCB) |
2011 |
|
5 |
Nguồn: NHNN (9/2022)
Về quỹ tín dụng nhân dân[9], tính đến 31/12/2021, có 31 QTDND (hay còn gọi là Hợp tác xã tín dụng) trên địa bàn Vĩnh Phúc với tổng vốn điều lệ 172 tỷ đồng (chiếm 6,24% về số lượng và 6,91% về vốn điều lệ so với Vùng ĐBSH); số lượng thành viên lên tới 26.900 (bình quân 868 thành viên/quỹ). Số lượng cán bộ nhân viên của QTDND khoảng 309 trong đó số lượng cán bộ chiếm 40,1% (tỷ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng trở lên đạt 95%).
Top 5 quỹ TDND lớn nhất trên địa bàn là Quỹ TDND xã Đồng Văn (vốn điều lệ 9.7 tỷ đồng); Quỹ TDND TT Thanh Lãng (vốn điều lệ 9.3 tỷ đồng); Quỹ TDND xã Tề Lỗ (vốn điều lệ 8.5 tỷ đồng); Quỹ TDND xã Tứ Trưng (vốn điều lệ 7.9 tỷ đồng); Quỹ TDND TT Yên Lạc (vốn điều lệ 7.8 tỷ đồng). Một số quỹ TDND có lịch sử hoạt động lâu đời nhất (28 năm từ năm 1994) tại địa bàn Vĩnh Phúc là quỹ TDND xã Đại Đồng, quỹ TDND thị trấn Hương Canh, quỹ TDND xã Thổ Tang, quỹ TDND xã Tứ Trưng, quỹ TDND xã Bình Dương, Quỹ TDND xã Tam Hồng.
Bảng 2: Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn Vĩnh Phúc
STT |
Tên QTDND |
Địa bàn |
Năm bắt đầu hoạt động tại Vĩnh Phúc |
Vốn điều lệ (tỷ đồng) |
1 |
Quỹ TDND xã Đại Đồng |
Xã Đại Đồng, Huyện Vĩnh Tường |
1994 |
3.7 |
2 |
Quỹ TDND xã Tề Lỗ |
Xã Tề Lỗ, Huyện Yên Lạc |
1995 |
8.5 |
3 |
Quỹ TDND xã Vĩnh Thịnh |
Xã Vĩnh Thịnh, Huyện Vĩnh Tường |
1995 |
5.6 |
4 |
Quỹ TDND xã Tuân Chính |
Xã Tuân Chính, Huyện Vĩnh Tường |
1995 |
4.0 |
5 |
Quỹ TDND TT Yên Lạc |
TT Yên Lạc, Huyện Yên Lạc |
2004 |
7.8 |
6 |
Quỹ TDND TT Vĩnh Tường |
TT Vĩnh Tường, Huyện Vĩnh Tường |
1997 |
7.1 |
7 |
Quỹ TDND Phường Hòa Xuân |
Tổ 3, Phố Đồng Xuân - TP Vĩnh Yên |
1995 |
4.5 |
8 |
Quỹ TDND xã Xuân Hòa |
Xã Xuân Hòa, Huyện Lập Thạch |
1995 |
5.4 |
9 |
Quỹ TDND xã Vĩnh Sơn |
Xã Vĩnh Sơn, Huyện Vĩnh Tường |
1995 |
4.5 |
10 |
Quỹ TDND phường Đống Đa |
Đường Nguyễn Viết Xuân, phường Đống Đa |
1996 |
1.7 |
11 |
Quỹ TDND xã Tứ Trưng |
Thị trấn Tứ Trưng, Huyện Vĩnh Tường |
1994 |
7.9 |
12 |
Quỹ TDND xã Đình Chu |
Xã Đình Chu, Huyện Lập Thạch |
1996 |
3.7 |
13 |
Quỹ TDND xã Yên Đồng |
Xã Yên Đồng, Huyện Yên Lạc |
1996 |
7.0 |
14 |
Quỹ TDND TT Thanh Lãng |
TT Thanh Lãng, Huyện Bình Xuyên |
1996 |
9.3 |
15 |
Quỹ TDND xã Ngũ Kiên |
Xã Ngũ Kiên, Huyện Vĩnh Tường |
1996 |
6.9 |
16 |
Quỹ TDND TT Hương Canh |
TT Hương Canh, Huyện Bình Xuyên |
1994 |
3.4 |
17 |
Quỹ TDND LP Phúc Yên |
P.Trưng Trắc, TP.Vĩnh Yên |
2004 |
4.3 |
18 |
Quỹ TDND xã Thái Hòa |
Xã Thái Hòa, Huyện Lập Thạch |
1995 |
4.6 |
19 |
Quỹ TDND xã Thượng Trưng |
Xã Thượng Trưng, Huyện Vĩnh Tường |
1996 |
5.4 |
20 |
Quỹ TDND xã Vũ Di |
Xã Vũ Di, Huyện Vĩnh Tường |
1996 |
4.7 |
21 |
Quỹ TDND xã Văn Quán |
Xã Văn Quán, Huyện Lập Thạch |
1996 |
3.9 |
22 |
Quỹ TDND xã Cao Đại |
Xã Cao Đại, Huyện Vĩnh Tường |
2006 |
5.9 |
23 |
Quỹ TDND TT Lập Thạch |
TT Lập Thạch, Huyện Lập Thạch |
2011 |
5.6 |
24 |
Quỹ TDND xã An Tường |
Xã An Tường, Huyện Vĩnh Tường |
1998 |
4.5 |
25 |
Quỹ TDND xã Chấn Hưng |
Xã Chấn Hưng, Huyện Vĩnh Tường |
1995 |
5.6 |
26 |
Quỹ TDND xã Đồng Văn |
Xã Đồng Văn, Huyện Yên Lạc |
1995 |
9.7 |
27 |
Quỹ TDND xã Bình Dương |
Xã Bình Dương, Huyện Vĩnh Tường |
1994 |
7.1 |
28 |
Quỹ TDND xã Tam Hồng |
Xã Tam Hồng, Huyện Yên Lạc |
1994 |
7.2 |
29 |
Quỹ TDND xã Thổ Tang |
TT Thổ Tang, Huyện Vĩnh Tường |
1994 |
2.0 |
30 |
Quỹ TDND xã Lý Nhân |
Xã Lý Nhân, Huyện Vĩnh Tường |
2011 |
4.2 |
31 |
Quỹ TDND xã Tam Phúc |
Xã Tam Phúc, Huyện Vĩnh Tường |
2016 |
6.1 |
Nguồn: NHNN (9/2022)
Một số kết quả nổi bật của huy động vốn qua kênh tiền gửi ngân hàng trong giai đoạn 2016-2021
- Thứ nhất, huy động vốn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng, tăng nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế:
+ Về huy động vốn của hệ thống NHTM: Theo NHNN tỉnh Vĩnh Phúc, quy mô huy động vốn của hệ thống TCTD trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc năm 2021 đạt 96.3 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với năm 2020 và gấp 2,04 lần năm 2016. Với hệ thống NHTM ngày càng mở rộng tại địa bàn, giai đoạn 2016-2021, tăng trưởng huy động vốn bình quân trên địa bàn đạt 17,6%, cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân của cả nước (14,5%) và bình quân 11 tỉnh ĐBSH (15,1%), đồng thời cao hơn một số tỉnh ĐBSH như Hà Nam, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng. Giai đoạn 2020-2021, mặc dù trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội, tăng trưởng huy động vốn của Vĩnh Phúc vẫn đạt mức khá bình quân 13,4%, cao hơn mức trung bình cả nước và cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn của một số tỉnh có quy mô huy động vốn cao của Vùng như Hà Nội, Quảng Ninh.
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.