ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1789/QĐ-UBND |
Cần Thơ, ngày 26 tháng 5 năm 2016 |
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Thông tư số 03/2011/TT-BNV ngày 25 tháng 01 năm 2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ;
Căn cứ Quyết định số 24/2013/QĐ-UBND ngày 09 tháng 10 năm 2013 của Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quy định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của thành phố Cần Thơ;
Căn cứ Quyết định số 3090/QĐ-UBND ngày 07 tháng 12 năm 2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố về việc phê duyệt nội dung đề cương chi tiết dự án Tăng cường tác động của cải cách hành chính ở thành phố Cần Thơ;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Nội vụ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Bộ tài liệu bồi dưỡng cho công chức lãnh đạo, quản lý và công chức tham mưu công tác cải cách hành chính ở các cấp thuộc thành phố Cần Thơ - Dự án Tăng cường tác động của cải cách hành chính ở thành phố Cần Thơ.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố, Giám đốc Sở Nội vụ, Giám đốc Ban Quản lý dự án “Tăng cường tác động của cải cách hành chính thành phố Cần Thơ” và Thủ trưởng cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận: |
CHỦ TỊCH |
CÔNG CHỨC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ PHỤ TRÁCH CÔNG
TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1789/QĐ-UBND ngày 26 tháng 5 năm 2016 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ)
THỰC TIỄN TRIỂN KHAI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM VÀ CẦN THƠ THỜI GIAN QUA
I. KHÁI NIỆM CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
"Cải" là từ Hán-Việt có nghĩa là thay đổi, “cách” là phương pháp, hình thức hành động. Cải cách là thay đổi phương pháp, hành động của một công việc, hoặc một hoạt động cụ thể để đạt mục tiêu tốt hơn. (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Hành chính là “lĩnh vực hoạt động của chính phủ thực thi quyền hành pháp, thi hành những chính sách và pháp luật của nhà nước.(Từ điển bách khoa Việt Nam)
Cải cách hành chính (CCHC) là “những công việc phải tiến hành nhằm làm cho hệ thống cơ quan nhà nước thực sự vững mạnh, đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng và các mặt yếu kém, đáp ứng yêu cầu của nhân dân trong thời kì đổi mới toàn diện đất nước Việt Nam”.(Từ điển bách khoa Việt Nam)
Có nhiều cách định nghĩa về nền hành chính nhà nước, nhưng phổ biến hiện nay cho rằng “nền hành chính nhà nước là hệ thống các yếu tố hợp thành về tổ chức (bộ máy, con người, nguồn lực công) và cơ chế hoạt động để thực thi quyền hành pháp của nhà nước theo qui định pháp luật. Như vậy, muốn có nền hành chính nhà nước tồn tại cần phải hội đủ các yếu tố sau:
- Thứ nhất, hệ thống thể chế hành chính bao gồm Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản quy phạm về tổ chức, hoạt động của hành chính nhà nước và tài phán hành chính;
- Thứ hai, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính nhà nước các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu thực hiện quyền hành pháp;
- Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính được đảm bảo về số lượng và chất lượng để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của nền hành chính;
- Thứ tư, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm yêu cầu thực thi công vụ của các cơ quan và công chức hành chính. Giữa các yếu tố của nền hành chính có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau trong một khuôn khổ thể chế. (Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng, đoàn thể năm 2011).
Vì vậy, có thể định nghĩa :
CCHC là tạo ra những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhằm làm cho các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn và phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn.
Nghị quyết TW 08 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII năm 1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mà trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước đã xác định 3 yếu tố phải cải cách, đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy cùng quy chế hoạt động của hệ thống hành chính và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Ba yếu tố này đã được tập trung cải cách từ năm 1995 đến năm 2000. Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 đã bổ sung thêm một yếu tố, cũng tức là một lĩnh vực cải cách mới, đó là cải cách tài chính công.
Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020[1] đã xác định các mục tiêu CCHC bao gồm:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính (TTHC).
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Chương trình cũng xác định 6 lĩnh vực cải cách, bao gồm:
- Cải cách thể chế;
- Cải cách TTHC;
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính;
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC;
- Cải cách tài chính công;
- Hiện đại hóa hành chính.
II. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ, ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CCHC
1. Vai trò
Đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý CCHC giữ vai trò quyết định trong triển khai thành công CCHC, bảo đảm CCHC được thực hiện theo đúng chủ trương, quan điểm của Đảng, chương trình, kế hoạch của Chính phủ và phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Sự quan tâm, vào cuộc của đội ngũ lãnh đạo, quản lý trong CCHC là điều kiện quan trọng để cải cách thành công. Trách nhiệm và tâm huyết của người đứng đầu càng cao trong CCHC thì công tác này càng được đẩy mạnh.
2. Nhiệm vụ
Công chức lãnh đạo, quản lý CCHC có nhiệm vụ:
- Quán triệt chủ trương, quan điểm của Đảng, chương trình, kế hoạch CCHC của Chính phủ, tỉnh, của cấp trên trực tiếp trong đội ngũ CBCCVC;
- Quyết định chương trình, kế hoạch CCHC của cơ quan, đơn vị;
- Đối với lãnh đạo các sở, ngành: hướng dẫn các cơ quan đơn vị thực hiện nhiệm vụ CCHC thuộc ngành, lĩnh vực quản lý;
- Bố trí công chức tham mưu, giúp việc về CCHC theo yêu cầu;
- Bố trí nguồn lực cho các chương trình, kế hoạch CCHC;
- Chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch CCHC đã được phê duyệt;
- Chỉ đạo thực hiện các cơ chế, biện pháp CCHC đã được Trung ương ban hành;
- Kiểm tra việc triển khai CCHC;
- Chỉ đạo sơ kết, tổng kết đánh giá thực hiện CCHC;
- Khen thưởng, kỷ luật tập thể, cá nhân trong triển khai CCHC;
3. Ưu điểm
- Bảo đảm triển khai CCHC theo đúng chỉ đạo của cấp trên;
- Đã chú trọng nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, đánh giá CCHC;
- Đã chủ động, sáng tạo hơn trong ban hành cơ chế, chính sách cụ thể trong triển khai CCHC cho phù hợp với thực tế;
- Đã xác định vai trò và trách nhiệm trong công tác CCHC.
4. Hạn chế
- Một bộ phận chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải đẩy mạnh CCHC, chưa nắm đầy đủ yêu cầu và nội dung CCHC, còn làm việc theo quán tính, kinh nghiệm chủ nghĩa, chưa quan tâm thích đáng đến việc chỉ đạo tổ chức thực hiện CCHC;
- Người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa thể hiện được vai trò trách nhiệm trong công tác chỉ đạo, còn khoán trắng cho cấp dưới, cho đội ngũ công chức tham mưu, giúp việc nên chưa sâu sát với tình hình, thực tế;
- Chưa chú trọng công tác khen thưởng, kỷ luật trong đánh giá kết quả triển khai CCHC;
- Lãnh đạo một số sở ngành, quận huyện, đặc biệt là xã, phường, thị trấn còn coi công tác CCHC là tổ chức thực hiện cơ chế một cửa, là việc làm của Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả.
5. Một số giải pháp khắc phục
- Nâng cao nhận thức về CCHC thông qua các lớp bồi dưỡng; thông qua công tác chỉ đạo và kiểm tra thực hiện kế hoạch kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng của lãnh đạo cấp trên;
- Cập nhật thường xuyên những chủ trương, cơ chế mới về CCHC;
- Đưa kết quả triển khai CCHC thực sự thành một tiêu chí quan trọng trong đánh giá công chức lãnh đạo;
- Đánh giá chính xác CBCC và mạnh dạn thay thế những người không đáp ứng được yêu cầu công việc;
- Phát huy sáng kiến trong CCHC, ứng dụng công nghệ thông tin trong CCHC;
- Quản lý kế hoạch và chỉ đạo kiểm tra công tác CCHC.
III. THỰC TIỄN CCHC Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Tình hình CCHC ở Việt Nam trong những năm qua
Nếu tính từ Nghị quyết số 38/CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước TTHC trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức và Nghị quyết TW 8 khóa VII thì Việt Nam đã tiến hành CCHC được 20 năm. Căn cứ vào các Nghị quyết TW, Chính phủ đã ban hành nhiều chương trình, kế hoạch CCHC và chỉ đạo triển khai trong cả hệ thống hành chính nhà nước, trong đó đáng chú ý là Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 và Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020. Bước chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi những thay đổi tương thích của hệ thống hành chính nhà nước. Trong điều kiện mới, hệ thống hành chính nhà nước vốn trước đây được thiết kế, xây dựng và phát triển phù hợp với cơ chế kinh tế tập trung kế hoạch hóa đã bộc lộ nhiều bất cập đòi hỏi phải có những thay đổi thông qua CCHC.
Dưới sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp đã tổ chức triển khai CCHC phù hợp với trách nhiệm và điều kiện cụ thể của mình. Nếu xét nội dung triển khai thì CCHC của nước ta ngày càng được mở rộng, ban đầu theo Nghị quyết TW 8 khóa VII là 3 yếu tố: thể chế, tổ chức và con người, chuyển sang Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 là 4 yếu tố: thể chế, tổ chức, con người và cải cách tài chính công và hiện nay với Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 là 6 yếu tố: thể chế, TTHC (trước đây, cải cách TTHC được đặt trong cải cách thể chế), tổ chức, con người, tài chính công và hiện đại hóa hành chính. Điều này cho thấy càng đi sâu vào cải cách, chúng ta càng phát hiện ra rất nhiều yếu tố của nền hành chính là yếu kém, không phù hợp và đòi hỏi phải cải cách.
Mặt khác điều đó cũng cho thấy rõ đây chính là một trong các đặc thù của CCHC nước ta so với các nước có triển khai CCHC, đó là CCHC Việt Nam có nội dung rộng lớn, tất cả các yếu tố cơ bản và quan trọng của nền hành chính đều phải được cải cách. Trong quá trình CCHC, một loạt các biện pháp đã được nghiên cứu và đưa vào thực hiện, ví dụ như: cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cơ chế khoán biên chế và kinh phí hành chính, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, xác định vị trí việc làm và ngạch công chức, thi công chức, thi nâng ngạch cạnh tranh, thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý, chuyển đổi vị trí công tác, luân chuyển…
Cùng với thời gian, công tác chỉ đạo, điều hành CCHC từ Chính phủ, các bộ, ngành tới địa phương cũng có nhiều chuyển biến, thể hiện qua các công cụ như kế hoạch CCHC, báo cáo công tác CCHC, kiểm tra CCHC, chỉ số CCHC (PAR INDEX), chỉ số hài lòng hành chính (SIPAS)…
Những kết quả chủ yếu và một số tồn tại của CCHC thời gian qua:
* Kết quả đạt được:
- Thể chế của nền hành chính được cải cách và hoàn thiện một bước cơ bản phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với yêu cầu phát triển của xã hội;
- TTHC giữa cơ quan hành chính và công dân, tổ chức đã được đơn giản hóa và cải cách theo hướng giảm phiền hà, tạo thuận lợi cho công dân và tổ chức. Lần đầu tiên trong lịch sử nền hành chính Việt Nam, nhà nước đã rà soát, hệ thống hóa và xác định được số lượng, tên gọi TTHC tại từng ngành, từng cấp và công khai rộng rãi để mọi người dân đều biết;
- Vai trò, chức năng của các cơ quan hành chính từ Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp đã được điều chỉnh một bước phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, tập trung vào làm tốt chức năng quản lý nhà nước, trên cơ sở đó bộ máy cơ quan hành chính đã được sắp xếp, tổ chức lại theo hướng gọn nhẹ, giảm đầu mối. Nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã được tiếp tục quán triệt và thực hiện trong thực tiễn. Từ đó dẫn đến một kết quả nổi bật là đã giảm đáng kể đầu mối các cơ quan hành chính các cấp (hiện nay còn 22 bộ, cơ quan ngang bộ, 8 cơ quan thuộc Chính phủ, 17 sở ở cấp tỉnh và 12 phòng ở cấp huyện);
- Việc đẩy mạnh giải quyết TTHC với tổ chức và người dân qua Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả (Bộ phận “một cửa” và “một cửa liên thông”) giúp giảm thời gian và chi phí, cải thiện đáng kể mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. Trong những năm gần đây, nhà nước đã đầu tư trang thiết bị, nâng cấp thành “một cửa điện tử hiện đại”, qua đó đa số dịch vụ công ở hầu hết Bộ phận một cửa các cấp đã được giải quyết ở cấp độ 1 và 2, một số đạt cấp độ 3 và 4;
- Năng lực, phẩm chất và trình độ của đội ngũ CBCCVC được nâng lên thông qua một loạt các biện pháp cải cách như: thi tuyển công chức, thi nâng ngạch, thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, chuyển đổi vị trí công tác, luân chuyển….;
- Công tác quản lý tài chính, ngân sách đã được đổi mới, cơ chế tài chính thích hợp cho cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập đã được xác lập và triển khai rộng trong cả hệ thống hành chính, mang lại nhiều kết quả tích cực và bước đầu góp phần cải thiện thu nhập của CBCCVC;
- Việc áp dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan hành chính thông qua các giải pháp như phần mềm quản lý văn bản, quản lý con người, thư điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến… không chỉ cải thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính, mà còn góp phần nâng cao chất lượng phục vụ của hành chính đối với dân và tổ chức. Trong những năm qua, đa số các cơ quan hành chính đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO: 9001-2008 trong hoạt động của mình.
Có thể nói, qua cải cách, các cơ quan hành chính đã hoạt động tốt hơn, thể chế và TTHC đã được công khai và thông thoáng hơn, hoạt động của hệ thống hành chính đã minh bạch hơn, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Tính phục vụ nhân dân, tổ chức của các cơ quan hành chính bước đầu đã được thiết lập. Một số tỉnh, thành phố đã chọn CCHC là một trong những biện pháp đột phá nhằm thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp và cải thiện hơn nữa mối quan hệ nhà nước - nhân dân.
* Một số tồn tại:
- Hệ thống thể chế vẫn còn chưa đầy đủ, đồng bộ; tình trạng nợ văn bản, chất lượng thể chế chưa phù hợp còn khá phổ biến;
- TTHC vẫn còn rườm rà, gây khó cho nhân dân và tổ chức;
- Chậm và thiếu kiên quyết tiếp tục điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính; tổ chức bộ máy nói chung còn cồng kềnh; tổ chức bộ máy bên trong các bộ, cơ quan ngang bộ và các sở gia tăng đáng kể; chậm tinh giản biên chế;
- Năng lực và trình độ của một số CBCCVC còn rất hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu của sự phát triển; tiền lương chưa được cải cách cơ bản cũng là một nguyên nhân dẫn đến tiêu cực trong bộ máy hành chính;
- Giao quyền tự chủ tài chính cho các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm; ở một vài khía cạnh vẫn còn hình thức;
- Nhiều mục tiêu, kết quả dự kiến áp dụng CNTT vào hoạt động của cơ quan hành chính theo chương trình của Chính phủ không đạt, do đó hạn chế đáng kể tác động mang lại;
- Nội dung hiện đại hóa hành chính còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
* Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém:
- CCHC là công việc khó khăn, phức tạp, nhiều lực cản. Tuy được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên nhưng khâu tổ chức triển khai thực hiện từ Trung ương đến địa phương còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Tình trạng phó thác công việc cho cơ quan chức năng còn khá phổ biến ở nhiều bộ, ngành, địa phương. Chưa có nhiều giải pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả và chưa có sự chủ động tập trung quyết liệt. Công tác truyền thông về Chương trình tổng thể còn chưa mạnh nên chưa tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức trong toàn bộ hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong nhân dân;
- CCHC có mối quan hệ hữu cơ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp, nhất là đặc điểm cấu trúc hệ thống chính trị nước ta. Vì vậy, hiện tại vẫn thiếu một giải pháp cần thiết đủ tầm về mặt chỉ đạo để bảo đảm sự kết nối có hiệu quả;
- Một số mục tiêu xây dựng còn định tính nên rất khó đánh giá đúng hiệu quả, khó làm rõ trách nhiệm của cơ quan, tập thể, cá nhân có liên quan trong tổ chức thực hiện;
- Nhiều vấn đề quan trọng, cốt lõi nhưng chưa được làm rõ về mặt cơ sở lý luận nên khi triển khai còn lúng túng, khó tạo ra sự thống nhất cao trong chủ trương, nhận thức và cách làm;
- Nhiệm vụ đề ra nhiều nhưng chưa gắn với biện pháp bảo đảm cần thiết nên làm không đến nơi, đến chốn. Nguồn lực con người, tài chính và những điều kiện cần thiết bảo đảm cho CCHC chưa ngang tầm;
- Tính chuyên nghiệp và kỹ năng hành chính của CBCCVC còn thấp. Các kết quả bước đầu trong việc áp dụng CNTT vào hành chính và trang thiết bị công sở còn lạc hậu so với mặt bằng chung trong khu vực và thế giới;
- Tệ cửa quyền, quan liêu, tham nhũng vẫn còn, tính công khai, minh bạch của nền hành chính còn nhiều thách thức, một bộ phận CBCCVC suy giảm lý tưởng, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ, gây bất bình trong nhân dân.
2. Thực tiễn CCHC ở một số địa phương
CCHC ở nước ta diễn ra trên 2 cấp độ: cấp độ Trung ương và cấp độ địa phương. Xét về quy mô tổ chức và con người thì hành chính địa phương lớn hơn nhiều so với hành chính Trung ương.Xét về khối lượng công việc phải giải quyết cho người dân, tổ chức thì chính quyền địa phương ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã cũng chiếm ưu thế hơn so với các bộ, ngành Trung ương. Đánh giá của người dân, tổ chức đối với kết quả CCHC nói chung được thể hiện trước hết bằng cảm nhận khi đến với cơ quan hành chính địa phương để giải quyết các dịch vụ hành chính.
Chính vì vậy, CCHC ở địa phương có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng trong CCHC ở nước ta (Trong khi đó hầu hết thể chế quy định về TTHC lại do trung ương ban hành, địa phương gặp khó khăn trong việc kiến nghị sửa đổi thủ tục thuộc thẩm quyền của các cơ quan trung ương).
Thời gian qua, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đều triển khai công tác CCHC theo các nội dung và yêu cầu của Chính phủ trên cơ sở điều kiện cụ thể của từng địa phương, góp phần quan trọng vào những kết quả đã đạt được của CCHC trong cả nước.
Nhiều địa phương, căn cứ vào Nghị quyết TW và chỉ đạo của Chính phủ, đã ban hành chỉ thị, nghị quyết và chương trình CCHC. Tất cả các tỉnh, thành đều có kế hoạch CCHC hàng năm với chất lượng ngày càng tốt hơn. Tính cụ thể về mục tiêu, kết quả CCHC, trách nhiệm triển khai, thời gian hoàn thành và nguồn lực đã được chú ý nhiều hơn, tạo điều kiện cho việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, chương trình CCHC.
Chỉ số CCHC do Bộ Nội vụ công bố các năm từ 2012 đến nay đã phản ánh những kết quả và hạn chế trong triển khai CCHC của các địa phương.
Nhiều tỉnh thành phố phát huy khá mạnh tính năng động, sáng tạo trong triển khai CCHC. Cơ chế một cửa hiện đang được triển khai ở tất cả các đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh trong cả nước chính là bắt nguồn từ sáng kiến thí điểm của thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1995 đến 2000; cơ chế khoán biên chế và kinh phí hành chính, ứng dụng CNTT vào hoạt động của cơ quan hành chính như đăng ký kinh doanh qua mạng, khảo sát sự hài lòng của dân tại bộ phận một cửa, cơ chế một cửa liên thông hiện đại của Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh… Đặc biệt, trong nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã có nhiều nghiên cứu, đề xuất để đổi mới tổ chức chính quyền đô thị trên cơ sở những đặc thù của đô thị nhằm có được cơ cấu bộ máy thích hợp, gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Trong những năm cuối của chương trình tổng thể CCHC 2001 – 2010 và 4 năm triển khai chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2011 – 2020, Đà Nẵng đã nổi lên là địa phương đi đầu cả nước trong công tác CCHC. Một loạt các sáng kiến, các thí điểm cải cách đã được Đà Nẵng triển khai như: chỉ số CCHC, chỉ số hài lòng hành chính, xác định vị trí việc làm, mô hình đánh giá kết quả làm việc của công chức,thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý. Đà Nẵng cũng thu được những kết quả tích cực trong ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan hành chính, ví dụ như phần mềm quản lý công chức, phần mềm đánh giá kết quả làm việc của công chức, phần mềm đo lường sự hài lòng hành chính… Hiện tại, Đà Nẵng đang tiếp tục triển khai, phát huy những kết quả thí điểm và dự kiến sẽ thí điểm đổi mới thi tuyển cạnh tranh công chức, đổi mới cơ chế thu nhập của công chức căn cứ vào kết quả đánh giá công chức, xây dựng và đưa vào triển khai tài liệu bồi dưỡng công chức theo vị trí việc làm…
Nếu lấy chỉ số CCHC làm căn cứ, chúng ta có thể thấy nhiều tỉnh thành có những thay đổi điểm số đột biến qua các năm. Có những đơn vị năm trước có thứ hạng rất cao, năm sau xuống rất thấp hoặc ngược lại. Tuy nhiên những đơn vị sau thuộc nhóm PAR INDEX cao 3 năm liền, thể hiện sự sáng tạo, nỗ lực cao và tính bền vững trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện CCHC.
Bảng 1.1. Kết quả so sánh chỉ số PAR INDEX của một số địa phương
|
2012 |
2013 |
2014 |
Bình quân 3 năm |
Đà Nẵng |
87.12 |
87.02 |
92.54 |
88.89 |
Hải Phòng |
83.05 |
86.93 |
91.81 |
87.26 |
Hà Nội |
82.77 |
85.43 |
91.21 |
86.47 |
Thành phố Hồ Chí Minh |
83.83 |
83.52 |
87.12 |
84.82 |
Bình Dương |
81.26 |
86.86 |
85.22 |
84.45 |
Cần Thơ |
80.87 |
84.49 |
87.81 |
84.39 |
Bắc Giang |
82.75 |
83.22 |
85.4 |
83.79 |
(nguồn : Báo cáo chỉ số CCHC các năm 2012-2014 của Bội Nội vụ)
Mặc dù điểm số không ở mức cao nhưng điểm nổi bật trong triển khai CCHC của các tỉnh Lào Cai và Đắk Lắk là chú trọng công tác lập kế hoạch CCHC, xác định rõ các hoạt động, kết quả phải đạt và bảo đảm kinh phí; áp dụng hệ thống quản lý theo kết quả; cơ chế tự chủ sự nghiệp;cơ chế khoán biên chế và kinh phí hành chính.Đắk Lắk đã tổ chức điều tra lấy ý kiến người dân đánh giá về chất lượng dịch vụ giáo dục, y tế.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý là vẫn còn nhiều địa phương triển khai công tác CCHC với kết quả thấp, thường được xếp thứ hạng cuối bảng kết quả chỉ số hằng năm.
3. Các bài học kinh nghiệm
Việt Nam đã tiến hành CCHC từ hàng chục năm nay. Qua thực tiễn, các kết quả và hạn chế của công cuộc cải cách đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm tốt, trên cơ sở đó có những điều chỉnh phù hợp để triển khai mạnh mẽ trong thời gian tới.
Các bài học kinh nghiệm có thể có nhiều, phụ thuộc vào cách tiếp cận và góc độ xem xét. Qua thực tiễn triển khai CCHC của các bộ, ngành và địa phương, từ sự phản hồi của xã hội, người dân, doanh nghiệp cho thấy một số bài học kinh nghiệm như sau:
a) CCHC phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Đặc trưng tiêu biểu của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống một Đảng duy nhất cầm quyền. Đặc trưng này chi phối nhiều vấn đề, trong đó có CCHC. CCHC muốn tiến hành được, muốn duy trì và đẩy mạnh, trước hết phải trở thành một chủ trương trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tách rời vai trò lãnh đạo của Đảng không thể có cải cách, càng không thể có những kết quả tích cực. Từ năm 1995 cho đến nay, chủ trương CCHC đã được xác định trong một số nghị quyết của Đảng tại các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và trong các văn kiện Đại hội VII cho đến Đại hội XI. Năm 2007 đánh dấu một mốc thời gian quan trọng, chính là vì lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương Đảng có một Nghị quyết riêng về CCHC, đó là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X(Thành ủy thành phố Cần Thơ cụ thể hóa Nghị quyết này thành Chương trình số 29).
CCHC không tách rời sự lãnh đạo của Đảng còn được thể hiện ở sự hiện diện của các tổ chức Đảng, của các đảng viên đang giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của nhà nước từ Trung ương tới cơ sở. Những cá nhân, tổ chức này có trách nhiệm triển khai nghị quyết Đảng về CCHC thông qua các hình thức thích hợp, trong đó có hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
b. Sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ là một yếu tố bảo đảm CCHC đạt kết quả
Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong chỉ đạo triển khai CCHC của đất nước. Từ chủ trương của Đảng, Chính phủ có trách nhiệm cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch CCHC, trên cơ sở đó các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương các cấp xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch CCHC của mình nhằm bảo đảm mục tiêu chung của cải cách.
Trước đây, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001-2010 và mới đây đã ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011- 2020.
Công tác chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với công cuộc CCHC có ý nghĩa trên các phương diện:
- Bảo đảm rõ định hướng, mục tiêu CCHC;
- Xác định rõ các nhiệm vụ cải cách;
- Xác định các trọng tâm, ưu tiên cải cách theo từng thời kỳ;
- Xác định trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan hành chính, trước hết là Bộ trưởng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong triển khai CCHC;
- Tổng kết từ thực tiễn cải cách để hoạch định thể chế, cơ chế mới, có tính chất áp dụng chung trong cả nước.
c. CCHC triển khai thực hiện trên nhiều nội dung, nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm
So với các nước có cải cách nền công vụ thì CCHC ở Việt Nam được triển khai trên nhiều lĩnh vực từ thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục tới con người, các cơ chế hoạt động, ứng dụng CNTT v.v… Có thể nói gần như các yếu tố cấu thành cơ bản của nền hành chính quốc gia đều đòi hỏi phải cải cách, thay đổi. Chính vì vậy, việc triển khai không đơn giản và cũng không thể sớm đạt kết quả. Nó đòi hỏi công tác xây dựng kế hoạch CCHC của các bộ, ngành và địa phương phải bao quát đủ các lĩnh vực cải cách, cụ thể hóa vào phạm vi trách nhiệm của từng cơ quan. Kế đến là công tác triển khai, kiểm tra việc thực hiện trong thực tiễn.
d. Bảo đảm tính đồng bộ của CCHC với các cuộc cải cách khác trong hệ thống chính trị
Việt Nam cùng một lúc tiến hành một loạt các cải cách: cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, CCHC, cải cách kinh tế, cải cách giáo dục v.v... Mỗi lĩnh vực cải cách đều có các mục tiêu, kết quả riêng, tuy nhiên có rất nhiều vấn đề đan xen lẫn nhau, không thể cải cách riêng lẻ từng lĩnh vực thành công được. Chính vì vậy, tính đồng bộ giữa các lĩnh vực cải cách này có ý nghĩa quan trọng, nó đòi hỏi sự thống nhất ở tầm vĩ mô trong hoạch định thể chế, chính sách, pháp luật để bảo đảm các lĩnh vực cải cách có thể tốt hơn, không gặp trở ngại.
Tuy nhiên, thực tiễn có lúc không diễn ra như vậy. Từ góc độ cục bộ của ngành, lĩnh vực, đã có lúc các bộ chuẩn bị các dự án luật trình Quốc hội thông qua và khi ban hành mới thấy rõ sự cản trở về CCHC đang được triển khai, làm cho TTHC trên các lĩnh vực quản lý của các bộ phức tạp hơn; người dân, tổ chức phải vất vả hơn trong giải quyết công việc của mình.
e. CCHC đòi hỏi phải có những thí điểm
Trong quá trình cải cách, nhiều vấn đề trì trệ của nền hành chính được phát hiện và các giải pháp được đề xuất để thay đổi. Thông thường, các giải pháp đó về bản chất khác hẳn giải pháp hiện hành, lại chưa được kiểm nghiệm tính đúng đắn và chưa được thể chế hóa. Do vậy, hết sức cần thiết có sự thí điểm để qua thực tiễn xem xét tính phù hợp của các giải pháp. Một loạt các cơ chế có tính cải cách đang được triển khai trong quá trình cải cách đã ra đời theo cách như vậy.
g. Vai trò của người đứng đầu cơ quan hành chính
Người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp giữ vai trò hết sức quan trọng trong triển khai CCHC. Thực tiễn cho thấy nếu người đứng đầu có nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải đẩy mạnh CCHC, có quyết tâm cao trong chỉ đạo triển khai, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra thực hiện CCHC trong phạm vi trách nhiệm thì kết quả CCHC sẽ tốt, hỗ trợ và tác động mạnh tới việc thực hiện các nhiệm vụ khác, đặc biệt là phát triển kinh tế - xã hội.
4. Một số vấn đề được rút ra qua triển khai CCHC ở địa phương
a. CCHC ở địa phương mang tính thống nhất và tuân thủ
Về nguyên tắc, Trung ương ban hành chể chế, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch CCHC. Các cơ quan Trung ương cũng có trách nhiệm thực hiện, nhưng xét về quy mô con người và tổ chức cũng như phạm vi trách nhiệm thì chính quyền địa phương là nơi tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về trực tiếp giải quyết các nhu cầu của tổ chức, công dân.
Nói cách khác, chính quyền địa phương chấp hành, tuân thủ và triển khai các chủ trương, chính sách, thể chế, chương trình, kế hoạch về CCHC, đưa các vấn đề đó vào cuộc sống. Một khi các nội dung đó chưa thay đổi, tất cả các cơ quan hành chính địa phương đều phải chấp hành nghiêm chỉnh. Các thể chế mang tính cải cách về công chức, công vụ sau khi được ban hành, chính quyền địa phương các cấp phải tuân thủ và triển khai, ví dụ về thi công chức, xét tuyển công chức, thi nâng ngạch v.v. Bài học rút ra ở đây là khi các quy định cải cách của Trung ương phù hợp thì thông qua triển khai tại các địa phương sẽ có tác động to lớn, ngược lại thì hiệu quả sẽ không cao.
b. Thông qua CCHC tại địa phương, tổ chức và công dân cảm nhận trực tiếp kết quả CCHC, đánh giá mức độ đạt được của CCHC nói chung theo sự chỉ đạo của Trung ương. Chính quyền địa phương các cấp phải nhận thức rõ vấn đề này để chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện CCHC một cách có hiệu quả. Những kết quả, thành tựu của CCHC không chỉ thể hiện ở các báo cáo. Sự hài lòng của người dân về sự phục vụ của cơ quan hành chính trên từng lĩnh vực cụ thể, sự phát triển kinh tế - xã hội mới là thước đo kết quả chính xác nhất. Vì vậy các nỗ lực cải cách, hoạt động của các cơ quan hành chính, các công chức phải hướng vào phục vụ người dân, coi người dân, tổ chức là trọng tâm phục vụ. Chỉ có như vậy mới tạo ra bước chuyển biến căn bản trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, công dân.
c. CCHC địa phương mang đậm tính sáng tạo
Đã là cải cách phải có đổi mới, thay đổi. Các yếu tố của nền hành chính nhà nước từ thể chế, tổ chức bộ máy, con người, nguồn lực vật chất v.v... đều phải được nghiên cứu, rà soát nhằm phát hiện những bất cập, hạn chế đang làm cho các cơ quan hành chính hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả để có những thay đổi thích hợp. Thực tế CCHC cho thấy phần lớn các sáng kiến, các thay đổi được thực hiện trong hệ thống hành chính bắt nguồn từ đề xuất của chính quyền địa phương. Mặc dù chính quyền địa phương trong CCHC có trách nhiệm tuân thủ sự chỉ đạo của Trung ương, cụ thể hóa sự chỉ đạo, các thể chế, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch do Trung ương đề ra vào điều kiện địa phương để triển khai, nhưng điều đó không làm mất đi tính sáng tạo, tính đề xuất vì mục tiêu thay đổi tích cực hơn. Nguyên nhân chính là ở chỗ từ thực tiễn triển khai, chính quyền địa phương phát hiện những bất cập, những hạn chế đang cản trở cải cách, từ đó có những suy nghĩ làm sao cho tốt hơn.Cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cơ chế khoán biên chế và kinh phí hành chính, thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý … là những ví dụ thực tiễn khá rõ chứng minh đặc điểm này.
IV. THỰC TIỄN CCHC TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Nhiều năm qua, Cần Thơ đã nỗ lực triển khai các văn bản của trung ương và địa phương, cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch và việc làm cụ thể ở các ngành, các cấp. Gần 100% các cơ quan đơn vị có kế hoạch CCHC định kỳ, đồng thời thường xuyên tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả đạt được so với mục tiêu đề ra.
1. Kết quả đạt được
a) Công tác chỉ đạo điều hành
Lãnh đạo Thành ủy, Hội đồng nhân dân, UBND thành phố, cấp ủy chính quyền các cấp đã quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện CCHC.
Liên tục trong năm 2013 và 2014, thành phố đã chọn chủ đề năm là “CCHC, huy động mọi nguồn lực, hướng về cơ sở” tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác CCHC trên địa bàn thành phố. Hầu như chưa có nghị quyết của cấp ủy, và HĐND tỉnh thành nào nêu rõ chọn chủ đề này làm chủ đề năm như ở Cần Thơ.
Chỉ riêng từ năm 2011 đến nay, thành phố đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành CCHC.
Thành phố đã thực hiện xây dựng Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá CCHC cho cấp sở, cấp huyện, thành lập Tổ công tác xác định chỉ số CCHC các cấp; tổ chức đánh giá, xếp hạng Chỉ số CCHC cấp sở và cấp huyện. Việc áp dụng Chỉ số CCHC cấp sở và cấp huyện bước đầu đã thúc đẩy được tinh thần thi đua, hoàn thành các nhiệm vụ CCHC.
Kết quả điều tra khảo sát năm 2014 cho thấy mức độ hài lòng của người dân khi đến liên hệ thực hiện TTHC tại cơ quan hành chính nhà nước, tại cơ sở giáo dục, y tế, theo thứ tự là 87,5%, 93,7%, 79%, vượt yêu cầu của chương trình CCHC đề ra.
Việc tuyên truyền, phổ biến, quán triệt văn bản của Trung ương và thành phố về Chương trình tổng thể CCHC được thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú như: hội nghị, hội diễn, sân khấu hóa, cuộc họp nội bộ, hội thi tuyên tuyền lưu động, tranh cổ động, trực tiếp truyền hình, chính quyền trực tiếp đối thoại với nhân dân về TTHC, các loại hình cổ động trực quan khác. Điểm đặc biệt là khối lượng nội dung và hình thức tuyên truyền được duy trì đều đặn hằng năm. Đây là một hoạt động được Bộ Nội vụ đánh giá cao, là một trong những mặt mạnh của thành phố Cần Thơ trong CCHC.
Từ những hoạt động tuyên truyền liên tục đó, nhận thức của CBCCVC và nhân dân được nâng lên một bước rõ nét. Trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thực hiện CCHC được quy định cụ thể. Công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn, đôn đốc thực hiện CCHC đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các ngành, các cấp; người dân đã bước đầu tham gia vào quá tŕnh CCHC ở địa phương.
b) Kết quả đạt được cụ thể trên các lĩnh vực
Nhằm hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế chính sách về các lĩnh vực quản lý nhà nước của địa phương từ năm 2011 đến năm 2015, sở, ban, ngành và địa phương tham mưu, đề xuất Hội đồng nhân dân, UBND thành phố ban hành 151 văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) thuộc các lĩnh vực (trong đó, có 13 chỉ thị và 138 quyết định). Văn bản ban hành đạt yêu cầu chất lượng, thể hiện được tính công khai, minh bạch, phù hợp với quy định của Trung ương và tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương.
Khi kết thúc Đề án 30, thành phố có tổng số 1.677 TTHC. Đến giữa năm 2015 đã rà soát giảm được 24 thủ tục.
Trên địa bàn thành phố đã có 100% cơ quan hành chính nhà nước từ thành phố đến cấp xã thành lập Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả khang trang, thuận tiện.
Hầu hết cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp đã xây dựng xong đề án vị trí việc làm,vượt mục tiêu chương trình CCHC đề ra.
Về nâng cao trình độ CBCCVC : Bình quân hằng năm đã đưa đi đào tạo bồi dưỡng hơn 7.100 lượt CBCCVC, trong đó đào tạo chuyên môn chiếm khoảng 70%, còn lại là quản lý nhà nước, chính trị, tin học ngoại ngữ mỗi lĩnh vực chiếm khoảng 10%. Đặc biệt trong đào tạo chuyên môn, hằng năm có gần 220 người được đưa đi đào tạo bậc Thạc sĩ trở lên.
Về công tác kiểm tra CCHC, hằng năm riêng cấp thành phố đã kiểm tra hơn 60 cuộc tại các địa phương đơn vị. Bên cạnh đó các đơn vị đều tiến hành tự kiểm tra các đơn vị trực thuộc của mình.
Thực hiện cơ chế một cửa ở tất cả cơ quan đơn vị các cấp. Nhiều mô hình một cửa liên thông tiếp tục được phát huy với tinh thần chủ động sáng tạo, không trông chờ vào chỉ đạo của trên như liên thông trong lĩnh vực đất đai, liên thông 3 trong 1(khai sinh, hộ khẩu,bảo hiểm y tế)...
Thực hiện Nghị định số 24, 37 đến nay cấp thành phố có 22 cơ quan, cấp huyện có 10 phòng ban.
Thành phố đã triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu về CBCCVC toàn thành phố trên cơ sở ứng dụng phần mềm quản lý thông tin CBCCVC tại sở, ban, ngành, quận, huyện, xã, phường, thị trấn. Đã xây dựng và ban hành tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng trở lên trong cơ quan hành chính nhà nước. Quy định tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm chức danh Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và tương đương.
Tất cả các đơn vị hành chính và sự nghiệp đã thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính.
Về hiện đại hóa công sở: Đã hoàn thành mạng truyền số liệu chuyên dùng đến tất cả các cấp; có cổng thông tin điện tử thành phố và 33 cổng thành phần; hộp thư điện tử được cấp cho tất cả đơn vị và hầu hết cá nhân CBCCVC; tất cả đơn vị các cấp đã được chứng nhận ISO 9001-2008; đã trang bị nhiều phần mềm phục vụ quản lý và giao dịch với người dân; hình thành nhiều trung tâm hội nghị trực tuyến ở cấp thành phố và cấp huyện; cấp và quản lý gần 1.000 chữ ký điện tử cho các đơn vị và cá nhân. 100% số xã đã được hoàn thiện hoặc xây mới. 100% số xã có đường ô tô đến xã.
Có thể nói Cần Thơ đã thực hiện toàn diện, có trọng điểm, có phân kỳ thời gian để từng bước hoàn thiện các nội dung CCHC mà các chương trình của Chính phủ đề ra.
Những ưu điểm nêu trên được thể hiện qua sự nâng hạng trong Chỉ số CCHC của Cần Thơ: Năm 2012 xếp hạng 12/63; năm 2013 xếp hạng 8/63 ; năm 2014 xếp hạng 5/63 tỉnh thành. Có mặt trong tốp những tỉnh có thứ hạng cao liên tục 3 năm liền.
2. Những hạn chế
- Sự phối hợp thực hiện công tác CCHC giữa các cơ quan, đơn vị chưa chặt chẽ, còn đùn đẩy, né tránh nhiệm vụ; đây cũng là hạn chế được nêu trong sơ kết 5 năm CCHC 2011-2015 chứng tỏ đây là mặt hạn chế kéo dài, cần tập trung giải quyết hơn nữa trong thời gian tới;
- Một số nội dung CCHC được Nghị quyết 30c đề ra chỉ mới có kết quả bước đầu: nhất là cải cách tài chính công và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức (mặc dù số lượng đào tạo hằng năm rất lớn);
- Việc xây dựng kế hoạch thực hiện công tác CCHC ở một số đơn vị chưa tập trung vào nội dung cụ thể, còn chung chung. Công tác tự kiểm tra tại các đơn vị chưa thật sự hiệu quả; Chất lượng CBCCVC chưa đồng đều; một số chưa làm hết trách nhiệm, chưa thật sự tận tụy phục vụ nhân dân; có lúc có nơi còn hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực;
- Hạ tầng mạng và việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ còn một số hạn chế cần khắc phục. Người dân và doanh nghiệp còn ít giao dịch trực tuyến.
* Nguyên nhân của những hạn chế:
- Công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát CCHC của người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa đầy đủ và chưa thật sự quyết liệt nên chưa kịp thời phát hiện những hạn chế từ đó chưa đề ra được các giải pháp thực hiện có hiệu quả;
- Bộ TTHC thường xuyên thay đổi gây khó khăn cho công chức và cả người dân trong khi thực hiện.
3. Bài học kinh nghiệm
- Thành phố quan tâm chỉ đạo thường xuyên, kiên quyết và điều hành tổ chức triển khai thực hiện tích cực. Lựa chọn một số lĩnh vực làm khâu đột phá, làm thí điểm, thường xuyên chỉ đạo việc rút kinh nghiệm và mở rộng để công tác CCHC đạt kết quả cao;
Bài học sâu sắc trong chỉ đạo CCHC ở Cần Thơ cần được phát huy là sau khi được triển khai các chủ trương, chương trình, kế hoạch… nhiều đơn vị chủ động sáng tạo đề xuất những cách làm cụ thể, mang tính đột phá; lãnh đạo biết lắng nghe và động viên các đơn vị tổ chức thực hiện thí điểm, sau đó chọn lọc để nhân rộng. Có thể nói sau hơn 10 năm thực tế triển khai CCHC tại Cần Thơ, các ngành, các đơn vị đã bước đầu xây dựng được nhận thức và hành vi mới trong thực hiện CCHC;
-Tăng cường công tác tuyên truyền CCHC, việc tuyên truyền phải tạo được sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của đội ngũ CBCCVC và nhân dân; đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho CBCCVC về công tác CCHC, đặc biệt CBCCVC làm việc tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả; có chế độ, chính sách phù hợp cho đội ngũ này;
- Vừa tuyên truyền, giáo dục, vừa thực hiện cơ chế trách nhiệm người đứng đầu một cách nghiêm túc đối với công tác CCHC. Bởi vì thực chất của công việc CCHC là cải cách cả bốn yếu tố cấu thành nền hành chính mà đó là trách nhiệm cao nhất của từng công chức, trước hết là công chức lãnh đạo.
CÂU HỎI THẢO LUẬN 1. Qua các kết quả và tồn tại trong công tác CCHC của các địa phương, và của Cần Thơ, Anh/Chị hãy liên hệ với công tác CCHC của cơ quan, đơn vị mình phụ trách. 2. Anh/Chị hãy liên hệ các bài học kinh nghiệm rút ra từ công tác CCHC nói chung và của các địa phương nói riêng cho cơ quan/đơn vị Anh/Chị phụ trách. 3. Sau khi nghiên cứu Nghị quyết 30c và các tài liệu liên quan về CCHC, Anh/Chị hãy cho biết so với nhận thức trước đây, hiện nay đã hiểu rõ thêm những nội dung quan trọng gì về CCHC? |
I. Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA KẾ HOẠCH TRONG QUÁ TRÌNH CCHC
1. Ý nghĩa
Trong những năm qua, các ngành các cấp đã trải qua các giai đoạn CCHC trên địa bàn thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch CCHC trên cơ sở các định hướng của Chính phủ và các yêu cầu thực tiễn của địa phương.
Trong quá trình quản lý thực hiện CCHC ở các cấp, công tác kế hoạch có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Được tổ chức quản lý theo một quy trình đầy đủ và khép kín (bao gồm xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, giám sát kiểm tra tiến độ thực hiện, kiểm điểm đánh giá thực hiện, và báo cáo thực hiện kế hoạch), công tác quản lý kế hoạch CCHC có tác dụng bảo đảm cho quá trình CCHC được tổ chức thực hiện có hiệu quả, đạt được các mục tiêu đề ra và giám sát, đánh giá, báo cáo căn cứ theo kết quả đạt được. Tăng cường chủ động sáng tạo để chỉ đạo, triển khai thực hiện.
Quá trình tổng kết thực hiện Chương trình CCHC Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 đã rút ra nhiều bài học bổ ích. Một trong số các bài học trong đó là: các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh cần xác định rõ các mục tiêu, nhiệm vụ CCHC; xác định cụ thể giải pháp, cách thức tổ chức thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ CCHC; đánh giá, kiểm điểm các kết quả CCHC phải dựa trên những mục tiêu đã đề ra… đồng thời phải đánh giá được các tác động của CCHC đối với xã hội.
Để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ CCHC ở địa phương có hiệu quả cao, một trong các yêu cầu đặt ra là lãnh đạo cần: “chỉ đạo thống nhất việc thực hiện chương trình CCHC trong phạm vi quản lý của mình; xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể trong từng thời gian, từng lĩnh vực; … xây dựng kế hoạch và lập dự toán ngân sách thực hiện CCHC hàng năm với kết quả đầu ra cụ thể và bố trí nguồn kinh phí cần thiết, có phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức và CBCCVC… trong tổ chức thực hiện[2].”
2. Vai trò
Xuất phát từ thực tiễn và các bài học được rút ra trong quá trình CCHC ở các địa phương trong những năm qua, có thể thấy rằng việc tổ chức quản lý kế hoạch CCHC ở địa phương là công việc không thể thiếu được, và đóng vai trò hết sức quan trọng, cụ thể trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, việc xây dựng kế hoạch CCHC, giúp các tổ chức, đơn vị xác định được rõ mục tiêu, kết quả của CCHC cần đạt được trong từng giai đoạn, đồng thời xác định được cách thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ CCHC để đạt được mục tiêu đề ra. Việc xây dựng kế hoạch cũng giúp tổ chức, đơn vị bố trí sử dụng và phối hợp các nguồn lực một cách hợp lý và có hiệu quả trong thực hiện các nhiệm vụ CCHC. Thông qua đó, giảm thiểu được sự trùng lắp, chồng chéo và lãng phí về nguồn lực phục vụ công tác CCHC.
Thứ hai, công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra và đánh giá CCHC, một mặt giúp các tổ chức, đơn vị phối hợp các nguồn lực, các hoạt động của các cá nhân cũng như các bộ phận một cách nhịp nhàng trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Mặt khác công tác này giúp các tổ chức, đơn vị có thể kiểm soát được tiến độ thực hiện, đánh giá được chất lượng và kết quả thực hiện CCHC.
Thứ ba, quản lý công tác CCHC có hiệu quả giúp tổ chức, đơn vị xác định được trách nhiệm của bộ phận và cá nhân trong thực thi nhiệm vụ CCHC, thông qua đó đánh giá được kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao của CBCC trong quản lý thực hiện các nhiệm vụ CCHC.
II. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG KẾ HOẠCH CCHC DỰA THEO KẾT QUẢ
1. Quản lý dựa theo kết quả
a) Lịch sử hình thành và phát triển
Trong lịch sử phát triển khoa học quản lý hành chính, đến những năm 70 của thế kỷ trước nhiều quốc gia và tổ chức đã trải qua thời kỳ áp dụng phương pháp quản lý dựa vào nguồn lực (Input-based Planning) hoặc phương pháp quản lý theo quy trình (Management by Process – MBP). Theo phương pháp này, trong xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ của quốc gia hay tổ chức, các nhà quản lý thường bị chi phối ngay từ ban đầu về ngân sách và các nguồn lực. Theo đó, trước khi xây dựng kế hoạch và thực hiện các công việc, các nhà quản lý thường có xu hướng căn cứ vào các nguồn lực sẵn có (ngân sách, nhân lực, thời gian ….).
Phương pháp xây dựng và thực thi kế hoạch theo quy trình tuy có ưu điểm là giúp các nhà quản lý có thể theo dõi và kiểm soát chi tiết tiến độ công việc. Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận quản lý theo quy trình thường bị phê phán là chưa chắc đã đảm bảo làm đúng việc cần phải làm. Hơn nữa, phương pháp này chưa chắc đảm bảo được hiệu suất công việc, và chưa chắc đảm bảo sẽ đạt được mục tiêu mong muốn.
Song song với quá trình phát triển về khoa học và thực tiễn quản lý, vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã xuất hiện một số phương pháp tiếp cận mới trong quản lý. Trong đó nổi lên một số phương pháp như:
- Quản lý theo Mục tiêu;
- Quản lý Dựa trên kết quả;
- Quản lý các Kết quả Phát triển;
- Lập Ngân sách Dựa trên Kết quả;
- Quản lý Thực thi Công việc.
(Nội dung chi tiết tại Phụ lục I).
Trong các phương pháp tiếp cận nêu trên, mỗi phương pháp có một ý nghĩa khác nhau và phục vụ một mục đích quản lý cụ thể.
Trải qua thời gian áp dụng trong thực tiễn, các phương pháp quản lý này đã được tập hợp trong một Hệ thống được gọi là Quản lý (Thực thi Công việc) dựa theo Kết quả (Performance Management System - PMS).
Hơn một thập kỷ qua, nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh thành được sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức hợp tác phát triển quốc tế, đã nghiên cứu áp dụng có chọn lọc phương pháp quản lý này trong thực tiễn quản lý quá trình CCHC ở địa phương. Các yếu tố của Hệ thống Quản lý theo Kết quả cũng đã được thể hiện trong Chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2011 – 2020, đặc biệt trong các định hướng và giải pháp thực hiện và một số văn bản chỉ đạo như đã phân tích ở phần trên.
b) Ý nghĩa và sự cần thiết trong quản lý
Quản lý Dựa theo Kết quả (PMS) là một tập hợp phương pháp tiếp cận và công cụ cho phép các nhà quản lý xác định được các kết quả cần đạt được và cách thức để đạt được các kết quả trong hoạt động quản lý nói chung và trong quản lý thực hiện kế hoạch nói riêng.
* Ý nghĩa: PMS cho phép các tổ chức, cơ quan, đơn vị:
- Nêu rõ được mục tiêu và định lượng được, xác định được kết quả phải đạt là gì;
- Phối hợp và huy động được thế mạnh, chuyên môn của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều bộ phận, nhiều người để đạt được mục tiêu;
- Theo dõi đánh giá được tiến độ thực hiện so với các mục tiêu đã đề ra;
- Phát hiện được các khiếm khuyết và có các biện pháp cải tiến điều chỉnh kịp thời trong thực hiện kế hoạch;
- Cho phép thực hiện được các hoạt động để nâng cao chất lượng thực thi công việc của tổ chức và cán bộ nhân viên.
* Sự cần thiết:
Trong quá trình các quốc gia và tổ chức đang thực hiện cải cách và đổi mới phương thức quản lý theo hướng hiện đại, việc áp dụng phương pháp tiếp cận hướng vào kết quả là một xu hướng phổ biến, và được cho là một trong những yêu cầu cần thiết bởi vì phương pháp này:
- Thứ nhất, giúp cải tiến công tác lập kế hoạch, đặc biệt nhằm đảm bảo gắn kết các hoạt động công việc với các ưu tiên và các kết quả mong muốn, nhằm đạt được mục tiêu;
- Thứ hai, thông qua việc chi ngân sách căn cứ vào kết quả công việc giúp các nhà quản lý tài chính và cơ quan thực hiện kế hoạch thay đổi tư duy, khắc phục lối phân bổ bình quân vốn còn nhiều hạn chế;
- Thứ ba, thông qua các kỹ thuật phân tích các vấn đề có liên quan đến nhiều sở ngành (theo chiều ngang) và đến các cấp hành chính cấp dưới (theo chiều dọc), sẽ tăng cường được công tác phối hợp trong xây dựng và quản lý kế hoạch. Đồng thời giúp cho việc phân công thực thi nhiệm vụ được rõ ràng hơn giữa các ngành và các cấp;
- Thứ tư, từ việc phân công cụ thể của kế hoạch đến từng người sẽ giúp cơ quan hoàn thiện nội dung vị trí việc làm của người đó, xác định rõ hơn năng lực cần có đồng thời xác định những năng lực cần phải bồi dưỡng thêm của người được phân công;
- Thứ năm, tăng cường tính công khai, tăng cường chất lượng công tác báo cáo cũng như các năng lực trong kiểm soát công việc và ra quyết định.
Việc nhận thức đầy đủ ý nghĩa và sự cần thiết của phương pháp Quản lý theo Kết quả sẽ giúp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý CCHC các cấp có thể thực hiện tốt hơn công tác chỉ đạo và tổ chức chức thực hiện kế hoạch CCHC tại địa phương.
2. Khung Lô-gic trong xây dựng kế hoạch CCHC
a) Xuất xứ
Phương pháp khung lô-gíc (hay còn gọi là LFA – là từ viết tắt của Logical Framework Approach) được hình thành chủ yếu dựa trên phương pháp quản lý theo mục tiêu (MBO). Phương pháp này bao gồm một tập hợp các bước và các “công cụ” xây dựng kế hoạch. Việc áp dụng các bước và các công cụ giúp nhận thức đầy đủ và toàn diện vấn đề, từ đó đề ra được các phương án và giải pháp để giải quyết vấn đề một cách có hiệu quả.
Phương pháp Khung Lô-gic được phổ biến đầu tiên trong những năm 1950 và 1960 của thế kỷ trước trong quản lý tổ chức và nhân sự của các doanh nghiệp phương Tây và các công ty ở Mỹ. Sau này, vào những năm 1970, phương pháp này được áp dụng trong lập kế hoạch các dự án phát triển của các cơ quan hỗ trợ phát triển quốc tế.
Do những ưu điểm của nó, về sau này, khung Lô-gic được vận dụng rộng rãi trong công tác lập kế hoạch, cả ở tầm chiến lược cũng như cấp độ tác nghiệp, trong các tổ chức doanh nghiệp, các cơ quan hỗ trợ phát triển, và các cơ quan hành chính nhà nước.
b) Cấu trúc và các thành phần
Một bản kế hoạch, được xây dựng theo phương pháp Khung Lô-gic, tuỳ theo quy mô và phạm vi, có thể bao gồm một số hoặc tất cả các thành phần như sau:
Mục tiêu dài hạn (còn được gọi là mục tiêu phát triển): là những lợi ích dài hạn do kế hoạch đem lại. Nói cách khác, đó là những tác động do những kết quả của kế hoạch đem lại sau khi kế hoạch kết thúc.
Mục tiêu trung hạn hay mục tiêu trực tiếp: là những lợi ích mà kế hoạch đem lại từ việc hoàn thành các đầu ra và hoạt động/nhiệm vụ cụ thể trong kế hoạch.
Các đầu ra: là những sản phẩm, kết quả công việc mà kế hoạch tạo ra thông qua việc hoàn thành các hoạt động hay các nhiệm vụ đã được xác định.
Các hoạt động: là tất cả các công việc hay các nhiệm vụ được thực hiện để hoàn thành các đầu ra đã được xác định.
Các yếu tố đầu vào: là các nguồn lực cần thiết để thực hiện các hoạt động hay các nhiệm vụ của kế hoạch. Chúng bao gồm nguồn nhân lực, chuyên gia, tài chính, thông tin, nguyên vật liệu, trang thiết bị,...
Trong thực tế, nguồn tài chính thực hiện kế hoạch là quan trọng nhất của đầu vào vì nó đảm bảo hầu hết các nguồn lực khác nói trên. Cam kết tài chính trong thực tế ở địa phương là sự phê duyệt dự toán năm hoặc điều chỉnh bổ sung cho 6 tháng cuối năm (nếu có) của cấp thẩm quyền. Để có sự phê duyệt ấy, đơn vị phải xây dựng dự thảo kế hoạch CCHC xong trước thời điểm phân bổ kinh phí hằng năm (của HĐND các cấp, của thủ trưởng cơ quan đơn vị) để trên cơ sở đó dự toán kinh phí cần thiết. Sau khi được phê duyệt kinh phí, cân đối lại các hoạt động trong kế hoạch cho phù hợp với khả năng tài chính hoặc thực hiện các giải pháp khác không tốn kém nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu ban đầu theo dự kiến.
Các chỉ số thực hiện (performance indicators): là các thông tin định lượng để từ đó có thể xác định được các hoạt động, nhiệm vụ, các kết quả hay các mục tiêu đã được hoàn thành so với hiện trạng hay so với các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch.
Các phương tiện xác minh (hay sản phẩm):là các tài liệu, văn bản làm bằng chứng chứng tỏ hoạt động hay kết quả đã hoàn thành.
Các điều kiện thực hiện: là các điều kiện bên ngoài không nằm trong sự kiểm soát của kế hoạch nhưng có thể tác động xấu đến việc hoàn thành kế hoạch. Chúng cần được đánh giá và được tính đến để đảm bảo không cản trở hay ảnh hưởng đến thực hiện kế hoạch. (Còn được gọi là các yếu tố rủi ro mà cấp thực hiện không thể chủ động được, kèm theo những giải pháp, kịch bản tương ứng.)
c) Các yêu cầu xây dựng kế hoạch theo Khung Lô-gic
* Lô-gic: trong bản kế hoạch theo Khung Lô-gic, các thành tố phải đảm bảo các mối quan hệ lô-gic với nhau, theo đó:
- Các hoạt động (hay các biện pháp phải thực hiện) được lên kế hoạch phải phục vụ cho việc đạt được các kết quả đầu ra. Tương tự như vậy, các kết quả đầu ra phải là tiền để để đạt các mục tiêu trực tiếp và lâu dài.
- Các nguồn lực phải được dự tính phù hợp cho thực hiện các hoạt động.
- Các chỉ số thực hiện phải phản ảnh rõ các kết quả đạt được để phục vụ công tác theo dõi và đánh giá.Đây là thành tố quan trọng nhất trong khung Logic, việc ghi ra được các chỉ số cụ thể, phù hợp với mục tiêu cần đạt của kế hoạch thể hiện năng lực và trình độ hiểu biết công việc của người lập kế hoạch.
- Các tài liệu kiểm chứng (các sản phẩm) phải được xác định cụ thể làm chứng cứ chứng minh sự hoàn thành các hoạt động hay kết quả.
- Các giả định hay các điều kiện thực hiện phải được tiên lượng sát thực tế để có thể giúp giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch.
* Cụ thể: trong một bản kế hoạch, các nội dung phải được thể hiện cụ thể và chính xác. Để xây dựng các nội dung của kế hoạch một cách cụ thể, cần phải trả lời sáu câu hỏi sau:
- Cái gì (What):Chúng ta mong muốn đạt được những gì qua thực hiện kế hoạch. Phải làm những gì để đạt được mong muốn đó.
- Tại sao (Why): Những lợi ích, lý do cụ thể để thực hiện các mong muốn của kế hoạch.
- Ai (Who): Các đối tượng,đối tác tham gia, hợp tác, phối hợp trong các hoạt động, nhiệm vụ của kế hoạch.
- Ở đâu(Where): Phạm vi, địa bàn thực hiện kế hoạch.
- Khi nào (When): Khuôn khổ thời gian phải thực hiện/hoàn thành từng công việc/nhiệm vụ trong kế hoạch.
- Thế nào (How): Cách thức thực hiện, những yêu cầu, những hạn chế trong thực hiện các công việc/nhiệm vụ.
* Có thể đo lường được: xây dựng được một hệ thống các tiêu chí chính xác để đo lường các kết quả công việc và mục tiêu đã định là yêu cầu tối cần thiết trong xây dựng kế hoạch. Các tiêu chí này được sử dụng làm cơ sở để theo dõi và đánh giá việc thực hiện kế hoạch, đồng thời đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của các cá nhân, bộ phận trong thực hiện kế hoạch.
* Khả thi: một kế hoạch tốt là một kế hoạch trong đó các mục tiêu, các công việc và các chỉ tiêu kết quả phải đảm bảo tính khả thi,tức là chúng phải thể hiện được tính khách quan với khả năng có thể thực hiện/có thể đạt được trong thực tế. Nhưng đồng thời cũng phải thể hiện quan điểm tiến công: nếu cố gắng, nỗ lực cao thì có thể đạt được kết quả tốt hơn. Không quá bằng lòng trong điều kiện hiện có.
* Có đủ nguồn lực: một kế hoạch dù được xây dựng tốt phải có đủ nguồn lực phân bổ cho thực hiện các công việc/hoạt động. Nguồn lực quan trọng nhất ở đây bao gồm: ngân sách cho các công việc/hoạt động, các chuyên gia, các giảng viên ... Các nguồn lực này phải được cam kết và phân bổ đầy đủ và đúng hạn theo tiến trình thực hiện. Các nguồn lực không nhất thiết chỉ dành riêng cho công tác CCHC, một số nhiệm vụ có thể được đảm bảo nguồn lực bằng cách lồng ghép với nhiều chương trình kế hoạch khác, hoạt động khác của một hoặc nhiều đơn vị để đa dạng hóa nguồn lực nhằm tiết kiệm và tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực.
* Có hạn định thời gian: các kết quả, các nhiệm vụ và công việc, và các chỉ tiêu trong kế hoạch phải được xác định trong một giai đoạn/khuôn khổ thời gian cụ thể và rõ ràng để hoàn thành. Các khuôn khổ thời gian này cũng chính là các mốc thời gian để kiểm điểm hay đánh giá mức độ hoàn thành kết quả công việc.
III. CÔNG TÁC KẾ HOẠCH CCHC TẠI CẦN THƠ TRONG THỜI GIAN QUA
1. Ưu điểm
Trong những năm qua, công tác kế hoạch CCHC của Cần Thơ đã có những tiến bộ rõ rệt. Qua các báo cáo đánh giá CCHC những năm gần đây, có thể thấy rằng:
- Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của lãnh đạo và công chức nói chung, và đặc biệt là các cán bộ và chuyên viên tham mưu về CCHC ở các cấp các ngành đã được nâng lên đáng kể. Những chuyển biến này được thể hiện rõ trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc kịp thời và có hiệu quả của UBND thành phố và Sở Nội vụ đối với các cơ quan đơn vị trong xây dựng và thực hiện kế hoạch CCHC hàng năm. Kết quả là trong những năm gần đây, các kế hoạch CCHC của thành phố và của hầu hết các đơn vị đã được ban hành kịp thời, mục tiêu khá cụ thể và tương đối phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
- Công tác kiểm tra thực hiện CCHC được tổ chức đúng kế hoạch và có hiệu quả.
- Kế hoạch CCHC hàng năm của các cấp đã được xây dựng cụ thể trên các lĩnh vực theo Chương trình CCHC của thành phố, trong đó cụ thể hoá các nhiệm vụ phải thực hiện với một số chỉ số kết quả rõ ràng; xác định các sản phẩm cần đạt được; có sự phân công cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị chủ trì và phối hợp; và quy định rõ thời gian thực hiện.
Những tiến bộ trên đây đã được thể hiện trong kết quả chỉ số CCHC của Cần Thơ do Bộ Nội vụ công bố.
2. Tồn tại, hạn chế trong xây dựng kế hoạch CCHC
Bên cạnh những tiến bộ đáng kể nêu trên, so với các yêu cầu của CCHC trong giai đoạn mới, đặc biệt là trước các yêu cầu quản lý hướng vào kết quả, công tác quản lý kế hoạch CCHC của các cấp còn có một số tồn tại và hạn chế cần khắc phục, cụ thể trên các mặt sau:
- Người đứng đầu của một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm, đầu tư suy nghĩ đúng mức cho công tác chỉ đạo quản lý CCHC trong phạm vi trách nhiệm được giao. Hạn chế này dẫn đến việc chỉ đạo chưa thật sự sát sao; đặc biệt, việc xây dựng kế hoạch ở một số đơn vị còn mang tính hình thức, nhiều nội dung trong kế hoạch chỉ sao chép lại kế hoạch của cấp trên, không cụ thể hóa nội dung cấp trên thành công việc cụ thể của cấp mình, đôi lúc ghi lại cả những nội dung chỉ có cấp trên mới thực hiện…dẫn đến hiệu quả thực hiện chưa cao;
- Trong xây dựng kế hoạch nhiều nơi có nêu công việc phải làm, mục tiêu cần đạt tuy nhiên nguồn lực (con người, tài chính, phương tiện...) để đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu đó chưa được cấp thẩm quyền và cơ quan chức năng xác định rõ ràng bằng các văn bản chính thức;
Thực tế là khi các đơn vị tổ chức thực hiện nhiệm vụ CCHC mới đề xuất cấp kinh phí, kinh phí thực hiện kế hoạch CCHC chậm. Thực tế này gây ra những trở ngại trong thực hiện CCHC;
- Các tài liệu kế hoạch tuy đã được xây dựng theo mẫu biểu, nhưng việc thể hiện về nội dung các nhiệm vụ, khung thời gian và trách nhiệm thực hiện còn chưa thực sự rõ ràng, chưa cụ thể, dẫn đến không thể xác định được mức độ hoàn thành công việc;
Hơn nữa, các đơn vị thực hiện CCHC đang thiếu hệ thống công cụ theo dõi kiểm tra và đánh giá thực hiện CCHC. Do vậy, công tác đôn đốc theo dõi và đánh giá CCHC ở cả cấp thực hiện (các sở ngành và cấp huyện) và cấp tham mưu, chỉ đạo (Sở Nội vụ, UBND thành phố) tuy đã được tổ chức có định kỳ nhưng hiệu quả chưa cao. Trong nhiều trường hợp, các vướng mắc trong phối hợp tổ chức thực hiện nhiệm vụ CCHC mang tính liên ngành chưa được cấp có thẩm quyền giải quyết kịp thời;
- Phần lớn các cán bộ lãnh đạo quản lý và tham mưu chưa được trang bị đầy đủ (về kiến thức) và có hệ thống (về phương pháp và các công cụ) xây dựng và quản lý tổ chức thực hiện CCHC. Hạn chế mang tính kỹ thuật này là một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế về hiệu quả trong quá trình quản lý CCHC (từ công tác xây dựng đến theo dõi đánh giá tổ chức thực hiện kế hoạch) như phân tích ở phần trên.
3. Bài học, kinh nghiệm
Với những ưu điểm và tồn tại trong công tác xây dựng và quản lý thực hiện kế hoạch CCHC phân tích ở trên, cùng với những kinh nghiệm và bài học rút ra từ giai đoạn CCHC vừa qua (2001 – 2010), có thể rút ra một số bài học như sau:
Thứ nhất, CCHC không phải là mục đích. Đó là phương tiện và giải pháp quan trọng để góp phần hoàn thiện nhà nước, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Quan điểm này phải được quán triệt đầy đủ và liên tục trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo và tham mưu CCHC; phải được thể hiện thông qua công tác kế hoạch, trong quản lý và đánh giá thực hiện kế hoạch CCHC ở các cấp các ngành.
Thứ hai, các nhiệm vụ cải cách của các đơn vị, bên cạnh dựa trên cơ sở các định hướng của cấp trên, phải xuất phát và bám sát các yêu cầu của chính các cơ quan đơn vị mình,các nhu cầu của nhân dân và các tổ chức khác. Những yêu cầu này đang ngày càng được phản ảnh trong các kế hoạch CCHC, tuy nhiên cần được thể hiện cụ thể hơn thành các chỉ tiêu kết quả cụ thể trong kế hoạch để có thể đánh giá được các nhiệm vụ CCHC ở kết quả và tác động đối với xã hội và người dân. Có thể nói năng lực xây dựng kế hoạch CCHC được thể hiện ở chỗ: dù từ ngữ có thể không giống kế hoạch cấp trên nhưng thực hiện được nhiệm vụ cấp trên giao tại địa phương đơn vị mình.
Thứ ba, để góp phần làm tốt công tác xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch CCHC theo các quan điểm bài học nêu trên, cần liên tục và thường xuyên nâng cao kiến thức và trang bị kỹ năng xây dựng kế hoạch và chỉ huy chỉ đạo thực hiện kế hoạch cho cán bộ quản lý các cơ quan ban ngành và các địa phương nói chung, và đặc biệt là cho các cán bộ chỉ đạo và tham mưu công tác CCHC nói riêng. Công tác này cần dựa trên phương pháp tiếp cận hướng vào mục tiêu, kết quả; mang tính tham gia, và có tính phối hợp giữa các đối tác có liên quan trong quá trình CCHC.
Bài tập 1: Thảo luận vai trò của công chức lãnh đạo trong việc quản lý, chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch CCHC. |
Để quản lý thực hiện kế hoạch CCHC, có thể sử dụng một số loại khung kế hoạch. Dưới đây là một số loại khung kế hoạch.
1. Khung kế hoạch CCHC hàng năm
Theo hướng dẫn của Bộ Nội vụ[3] có thể sử dụng khung kế hoạch với các thành tố cụ thể trong bảng dưới đây.
Bảng 2.1. Kế hoạch triển khai các nhiệm vụ CCHC
Nhiệm vụ chung |
Nhiệm vụ cụ thể |
Sản phẩm |
Cơ quan chủ trì |
Cơ quan phối hợp |
Thời gian thực hiện |
Kinh phí dự kiến (VNĐ) |
Ghi chú |
I. Cải cách thể chế |
1. …………. |
1…… 2……….. |
|
|
|
|
|
2…………… |
|
|
|
|
|
|
|
II. Cải cách TTHC |
1. ………….. |
1.……… 2……… |
|
|
|
|
|
2…………… |
|
|
|
|
|
|
|
III. Cải cách tổ chức bộ máy HCNN |
1. …………... |
1.……… 2……… |
|
|
|
|
|
2…………… |
|
|
|
|
|
|
|
IV. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC |
1. ………….. |
1.……… 2……… |
|
|
|
|
|
2…………… |
|
|
|
|
|
|
|
V. Cải cách tài chính công |
1. ………….. |
1.……… 2……… |
|
|
|
|
|
2…………… |
|
|
|
|
|
|
|
VI. Hiện đại hóa hành chính |
1. ………….. |
1.……… 2……… |
|
|
|
|
|
2…………… |
|
|
|
|
|
|
|
VII. Công tác chỉ đạo, điều hành CCHC |
1. ………….. |
1.……… 2……… |
|
|
|
|
|
2…… ……… |
|
|
|
|
|
|
|
Tổng kinh phí: (bằng chữ) |
|
|
Trong thực tế CCHC ở các cấp trong những năm qua, một số địa phương[4] đã áp dụng có hiệu quả phương pháp khung lô-gic và phương thức quản lý hướng vào kết quả trong xây dựng kế hoạch CCHC hàng năm.
Theo khung kế hoạch được minh họa ở Bảng 2 dưới đây, bản kế hoạch CCHC hàng năm phản ánh đầy đủ các nội dung và yêu cầu của phương pháp Quản lý theo Kết quả và phương pháp Khung lô-gic như đã phân tích ở phần trên.
Bảng kế hoạch hàng năm có một số điểm cần chú ý sau đây. Chúng có tác dụng giúp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý CCHC trong chỉ đạo xây dựng kế hoạch CCHC cho cơ quan, đơn vị mình.
- Các hoạt động được thể hiện rõ ràng, mang tính định hướng. Chúng sẽ được cụ thể hóa thành các công việc cụ thể trong hàng quý và hàng tháng;
- Các kết quả Đầu ra (các nhiệm vụ cụ thể) và các Hoạt động được đánh mã số cụ thể để phục vụ công việc theo dõi kiểm tra, kiểm điểm đánh giá và báo cáo;
- Các lĩnh vực, kết quả đầu ra và các hoạt động đều đưa ra các chỉ tiêu hoàn thành và các bằng chứng cụ thể, làm cơ sở để kiểm điểm và đánh giá vào cuối kỳ, cuối năm;
- Về ngôn ngữ thể hiện, các kết quả đầu ra được thể hiện ở thể bị động hoặc thể hoàn thành, các hoạt động/công việc được thể hiện bằng các hành động;
- Về thời gian thực hiện các kết quả đầu ra và các hoạt động được chia thành từng Quý và được cụ thể đến từng tháng. Có thể chỉ thị thời gian bằng chữ và có thể bằng màu.
(Bảng Kế hoạch CCHC hàng năm được cụ thể ở Phụ lục II).
Ngoài khung kế hoạch hằng năm được mô tả chi tiết tại bảng 1.3 bên dưới; khung kế hoạch quý, tháng được thiết kế tương tự nhưng cần quan tâm đến những lưu ý tương ứng (mục 2 và 3 dưới đây)
Một kế hoạch CCHC hàng năm đầy đủ được thể hiện thông qua đề cương kế hoạch CCHC. Đề cương CCHC dành cho các sở, ngành và các cấp huyện được cụ thể tại Phụ lục III và IV.
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.