UỶ BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1080/QĐ-UBND |
Quảng Nam, ngày 07 tháng 4 năm 2011 |
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH THỰC HIỆN ĐỀ ÁN NÂNG CAO NHẬN THỨC CỘNG ĐỒNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO THIÊN TAI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG ĐẾN NĂM 2020 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND, UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 13/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng;
Theo đề nghị của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Tờ trình số 65/TTr-NN&PTNT ngày 17/3/2011; văn bản ý kiến của các Sở, ngành và Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Kế hoạch thực hiện đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Điều 2. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam (cơ quan thường trực Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão tỉnh) chịu trách nhiệm theo dõi, đôn đốc các ngành, hội, đoàn thể, địa phương, đơn vị có liên quan thực hiện các nội dung theo nhiệm vụ được giao; hàng năm tổng hợp, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh và các Bộ, ngành có liên quan.
Điều 3. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh; Giám đốc các Sở; Thủ trưởng các ban, ngành, hội, đoàn thể, đơn vị có liên quan; Trưởng Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão tỉnh; Trưởng Ban chỉ huy tìm kiếm, cứu nạn tỉnh; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố căn cứ Quyết định thi hành.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký./.
Nơi nhận: |
TM.ỦY BAN NHÂN DÂN |
KẾ HOẠCH
THỰC HIỆN ĐỀ ÁN NÂNG CAO NHẬN THỨC
CỘNG ĐỒNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO THIÊN TAI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NAM ĐẾN NĂM 2020
(Ban
hành kèm theo Quyết định số: 1080 /QĐ-UBND ngày 07 /4/2011 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Quảng Nam)
Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng là một quá trình trong đó các cộng đồng đang đối mặt với rủi ro thiên tai tham gia tích cực vào việc xác định và phân tích các rủi ro, lập kế hoạch, thực hiện, theo dõi và đánh giá các hoạt động nhằm mục đích giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn thương và tăng cường khả năng ứng phó với thiên tai của cộng đồng.
Ngày 13/7/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1002/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng. Mục tiêu cơ bản của đề án là tập trung công tác truyền thông, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị, các tổ chức chính trị - xã hội và mọi người dân ở các làng, xã, thôn, bản... hiểu biết và tích cực tham gia mọi hoạt động trong lĩnh vực phòng, tránh giảm nhẹ thiên tai. Đồng thời tổ chức thực hiện, ứng dụng có hiệu quả các mô hình quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng ở trong nước và quốc tế nhằm giảm thiểu thiệt hại về người, vật chất, sản xuất của nhân dân, tài nguyên thiên nhiên, môi trường, di sản văn hóa... do thiên tai gây ra, góp phần bảo đảm sự phát triển của đất nước được ổn định, bền vững.
Nhằm triển khai thực hiện đề án của Chính phủ có hiệu quả, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, gồm các nội dung sau:
Phần I
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN, HIỆN TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH THIÊN TAI
I. THÔNG TIN CƠ SỞ TỈNH QUẢNG NAM.
1. Đặc điểm tự nhiên.
a) Vị trí địa lý.
Quảng Nam là tỉnh duyên hải Miền trung Việt Nam. Vị trí địa lý từ 14o57’10’’ đến 16o03’50’’ Vĩ độ Bắc và 107o12’50’’ đến 108o44’20’’ Kinh độ Đông; phía Bắc giáp tỉnh Thừa thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum và tỉnh Xê Koong (Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào), phía Đông giáp biển Đông.
Theo tài liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở 1.4.2009 tỉnh Quảng Nam - Kết quả điều tra toàn bộ, tổng dân số toàn tỉnh là 1.422.319 người. Trong đó: cư dân đô thị là 263.898 người, nông thôn là 1.158.421; tỷ lệ dân số đô thị đạt 18,55%.
Stt |
Đơn vị hành chính |
Dân số (người) |
Stt |
Đơn vị hành chính |
Dân số (người) |
01 |
Thành phố Tam Kỳ |
107.924 |
10 |
Huyện Phước Sơn |
22.586 |
02 |
Thành phố Hội An |
89.716 |
11 |
Huyện Hiệp Đức |
38.001 |
03 |
Huyện Tây Giang |
16.534 |
12 |
Huyện Thăng Bình |
176.183 |
04 |
Huyện Đông Giang |
23.428 |
13 |
Huyện Tiên Phước |
68.877 |
05 |
Huyện Đại Lộc |
145.935 |
14 |
Huyện Bắc Trà My |
38.218 |
06 |
Huyện Điện Bàn |
197.830 |
15 |
Huyện Nam Trà My |
25.464 |
07 |
Huyện Duy Xuyên |
120.948 |
16 |
Huyện Núi Thành |
137.481 |
08 |
Huyện Quế Sơn |
82.216 |
17 |
Huyện Phú Ninh |
77.091 |
09 |
Huyện Nam Giang |
22.417 |
18 |
Huyện Nông Sơn |
31.470 |
Tổng cộng: 1.422.319 người |
Địa hình Quảng Nam nghiêng dần từ Tây sang Đông, căn cứ vào các đặc điểm chung, có thể phân ra 03 vùng địa hình như sau:
- Địa hình vùng núi: Có độ cao trung bình từ 700m đến 800m, hướng thấp dần từ Tây sang Đông, gồm 06 huyện: Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Nam Trà My, Bắc Trà My;
- Địa hình vùng gò đồi, trung du: Là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía Tây và vùng đồng bằng ven biển, độ cao trung bình từ 100m đến 200m, độ dốc trung bình từ 150 ÷ 200;
- Vùng đồng bằng ven biển: Là dạng địa hình tương đối bằng phẳng, ít biến đổi, có độ cao dưới 30m gồm những dải đồng bằng nhỏ hẹp phía Đông và vùng cồn cát, bãi cát ven biển.
Về hiện trạng rừng: Theo công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là 465.432ha, trong đó rừng tự nhiên là 386.897ha, rừng trồng là 78.535ha; độ che phủ rừng đạt tỷ lệ 43,5%.
Tỉnh Quảng Nam có 02 hệ thống sông lớn là hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn và hệ thống sông Tam Kỳ.
- Hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn, được hình thành từ 02 sông chính là Vu Gia và Thu Bồn, với diện tích lưu vực 10.350km2 (kể cả phần lưu vực nằm trên địa phận tỉnh Kon Tum và thành phố Đà Nẵng). Hệ thống sông này được đổ ra cửa Hàn (thành phố Đà Nẵng) và Cửa Đại (thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam). Trên thượng nguồn hệ thống sông này đã có quy hoạch xây dựng 10 nhà máy thủy điện bậc thang có tổng dung tích khoảng 2 tỷ m3, công suất lắp máy khoảng 1.100MW; hiện nay đã đưa vào vận hành hồ thủy điện sông Tranh 2, A Vương, Sông Côn; hồ thủy điện ĐakMi 4 sắp tích nước; các hồ thủy điện còn lại đang thi công, dự kiến từ năm 2013 đến 2015 sẽ hoàn thành và đưa vào vận hành;
- Sông Tam Kỳ, có hai nhánh chính là nhánh sông Tam Kỳ và nhánh sông Bàn Thạch, diện tích lưu vực khoảng 1.040km2, sông chính dài 70km, chảy ra biển tại Cửa Lở thuộc huyện Núi Thành. Hiện nay phía thượng nguồn của sông Tam Kỳ được xây dựng hồ chứa nước Phú Ninh chiếm lưu vực 235km2;
- Ngoài 02 hệ thống sông chính nói trên, dọc theo bờ biển còn có sông Trường Giang, đây là sông tiêu thoát lũ ở khu vực vùng đồng bằng, nối liền sông Thu Bồn và Sông Tam Kỳ với chiều dài khoảng 70km.
Quảng Nam có lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.580mm; vị trí địa lý, điều kiện địa hình, cùng với những thay đổi phức tạp của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo nên khí hậu Quảng Nam có 02 mùa rõ rệt trong năm:
- Mùa khô: Từ tháng 01 đến tháng 8, có lượng mưa chiếm 20% ÷ 25% lượng mưa trung bình năm, thường xảy ra hạn hán, nắng nóng, giông tố, lốc xoáy và xâm nhập mặn;
- Mùa mưa: Bắt đầu từ tháng tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa chiếm khoảng 75% ÷ 70% lượng mưa trung bình cả năm và thường gây ra lũ, lụt.
Do vị trí địa lý, đặc điểm địa hình, địa mạo cùng với tác động biến đổi khí hậu toàn cầu, tình hình thiên tai trên địa bàn tỉnh Quảng Nam diễn ra hết sức phức tạp và có xu thế ngày càng gia tăng về số lượng cũng như mức độ khốc liệt. Các loại hình thiên tai thường xuất hiện ở Quảng Nam là áp thấp nhiệt đới (ATNĐ), bão, lũ lụt, giông sét, lốc tố, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở đất…
Bão và ATNĐ ở Quảng Nam thường xảy ra trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 7, tập trung chủ yếu vào tháng 10 và tháng 11. Các cơn bão và ATNĐ thường đi kèm với mưa to. Vì vậy, ngoài việc xuất hiện gió xoáy, trên đất liền còn bị ảnh hưởng của lũ lụt.
Qua thống kê của ngành khí tượng thủy văn, từ năm 1997 đến 2009 trên biển Đông xuất hiện 174 cơn bão và ATNĐ, trong đó có 26 cơn bão và 12 ATNĐ ảnh hưởng đến tỉnh Quảng Nam; đặc biệt cơn bão số 6 có tên Quốc tế là Sang Sane và cơn bão số 9 có tên Quốc tế là Ketsana, đổ bộ trực tiếp vào Quảng Nam gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản của Nhà nước và nhân dân.
THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG CÁC CƠN BÃO, ATNĐ
Từ năm 1997 đến năm 2009
Năm |
Bão |
ATNĐ |
Ghi chú |
|||
Trên Biển Đông |
Ảnh hưởng Quảng Nam |
Đổ bộ trực tiếp vào Quảng Nam |
Biển Đông |
Ảnh hưởng Quảng Nam |
||
1997 |
5 |
1 |
|
0 |
0 |
|
1998 |
8 |
5 |
|
3 |
3 |
|
1999 |
10 |
2 |
|
9 |
1 |
|
2000 |
4 |
2 |
|
3 |
1 |
|
2001 |
8 |
2 |
|
1 |
1 |
|
2002 |
4 |
0 |
|
1 |
0 |
|
2003 |
7 |
1 |
|
0 |
0 |
|
2004 |
4 |
2 |
|
1 |
1 |
|
2005 |
7 |
6 |
|
2 |
2 |
|
2006 |
9 |
3 |
1 |
6 |
1 |
|
2007 |
8 |
0 |
|
4 |
0 |
|
2008 |
10 |
0 |
|
7 |
2 |
|
2009 |
10 |
2 |
1 |
3 |
0 |
|
Tổng |
96 |
24 |
2 |
40 |
12 |
|
Từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm là thời kỳ mưa lũ ở Quảng Nam, mưa lớn tập trung từ trung tuần tháng 10 đến thượng tuần tháng 12. Có 03 loại hình thái thời tiết gây mưa lũ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, đó là:
- Khi có bão, ATNĐ đổ bộ vào đất liền hoặc ảnh hưởng trực tiếp như di chuyển dọc theo bờ biển, hoặc đổ bộ vào phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đi kèm với bão thường có các đợt mưa to trước và sau bão, ATNĐ;
- Khi có gió mùa Đông - Bắc cường độ mạnh tràn về kết hợp với hoàn lưu của bão, ATNĐ. Đây là hình thái thời tiết có xu thế gây mưa to, lũ lớn trên đất liền;
- Khi dãy hội tụ nhiệt đới hoạt động ở phía Nam biển Đông, đồng thời ở phía Bắc có gió mùa hoặc tín phong Đông Bắc hoạt động và di chuyển xuống phía Nam. Hình thái thời tiết này thường gây ra mưa lớn, kéo dài nhiều ngày.
Các cơn lũ lớn điển hình năm 1964, 1999, 2007, 2009 trên địa bàn tỉnh đều do các hình thái kết hợp nêu trên gây ra.
c) Lũ quét.
Hàng năm, lũ quét gây ra sạt lở núi và xói lở đất vùng ven sông, suối diễn ra khá phức tạp, nhất là ở các huyện vùng núi, trung du có độ dốc sông, suối lớn. Những năm gần đây, do ảnh hưởng của mưa có cường suất cao, lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều với mức độ khác nhau. Lũ quét thường phát sinh bất ngờ, xảy ra trong phạm vi hẹp nhưng sức tàn phá lớn và gây ra những tổn thương nghiêm trọng về người và tài sản, ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân ở khu vực ven các sông, suối.
- Sạt lở bờ sông: Hệ thống sông Thu Bồn - Vu Gia của tỉnh đều có độ dài ngắn, chảy quanh co khúc khủy, độ uốn khúc từ 1,3 đến 2 lần. Do đặc điểm, hàng năm đến mùa lũ lụt, những vị trí bờ lõm dọc theo ven bờ sông thường bị bị sạt lở đất, ăn sâu vào bờ khoảng 10m ÷ 20m, có nơi lớn hơn, làm mất đất sản xuất và hư hỏng, sập đổ nhiều nhà dân và các công trình cơ sở hạ tầng, công trình thủy lợi, trong đó các huyện: Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, thành phố Hội An... bị ảnh hưởng nhiều nhất. Qua khảo sát sơ bộ, hiện nay có khoảng 34 vị trí trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn với chiều dài khoảng 50km đã và đang bị sạt lở nghiêm trọng, cần phải có các giải pháp công trình để khắc phục.
- Sạt lở bờ biển: Quảng Nam có chiều dài bờ biển 125km, hàng năm nhiều vị trí bờ biển bị xâm thực, gây ảnh hưởng mất đất sản xuất và các khu dân cư, khu du lịch ven biển. Qua khảo sát theo dõi từ năm 1996 đến nay, tại khu vực Cửa Đại (thuộc phường Cửa Đại, thành phố Hội An) hiện tượng bồi lấp cửa sông, xói lở bờ biển diễn ra rất phức tạp; tại các xã: Tam Hải - huyện Núi Thành, Duy Hải - huyện Duy Xuyên; Tam Thanh - thành phố Tam Kỳ... bị sạt lở bờ biển nghiêm trọng do tác động của gió bão, ATNĐ.
Khu vực miền núi tỉnh Quảng Nam có địa mạo, địa chất phức tạp, độ dốc của các sườn núi khá lớn. Khi xuất hiện mưa lớn kéo dài nhiều ngày, cùng với tác động của con người như bạt núi, mở đường, chặt phá rừng, khai thác khoáng sản trái phép... đã gây ra trượt lở đồi núi, sườn dốc nhiều nơi, tập trung chủ yếu ở các địa phương vùng trung du và miền núi.
Do nhiều tác động khác nhau, khi có mưa lũ, tình hình sạt lở núi ngày càng có diễn biến phức tạp gây nhiều thiệt hại về người và tài sản, trong đó một số vụ điển hình về sạt lở núi được thống kê như sau: Tại huyện Phước Sơn vào năm 2004, do mưa lớn đã gây sạt lở núi làm chết 19 người; tại xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh năm 2008 sạt lở núi làm chết 6 người; tại xã Trà Giác, huyện Bắc Trà My năm 2009 sạt lở núi làm 13 người chết. Ngoài ra, một số nơi khác hiện nay có nguy cơ cao bị sạt lở núi như: Xã Tiên An, Tiên Lộc - huyện Tiên Phước; Aroi - thị trấn Prao; các xã: Tàlu, Sông Côn, Jơ Ngây, Cà Dăng, Ating - huyện Đông Giang. Những khu vực này đã được cảnh báo và có nhiều dự án di dời dân đi đến nơi ở khác.
Theo báo cáo của Viện Địa chất, qua khảo sát sơ bộ trên 850km mặt cắt ngang, dọc những khu vực chính ở một số huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, đã phát hiện có 42 khu vực trượt lở thường xuyên, 17 tuyến trượt lở theo từng tuyến, 68 vị trí trượt lở theo từng điểm.
f) Gió mùa Đông Bắc.
Trung bình hàng năm Quảng Nam có 14 đến 15 đợt gió mùa Đông Bắc. Trong thời kỳ đầu, từ tháng 10 đến tháng 12, gió mùa Đông Bắc tràn về thường kết hợp với nhiễu động nhiệt đới ở phía Nam biển Đông như bão, ATNĐ, dãy hội tụ nhiệt đới... gây ra mưa to kéo dài nhiều ngày sinh ra lũ lụt; trong thời kỳ từ tháng 01 đến tháng 3 năm sau, các đợt gió mùa Đông Bắc tràn về gây ra mưa, nhiệt độ giảm, gió mạnh.
Giông, lốc, sét xuất hiện nhiều nhất từ tháng 4 đến tháng 9, mỗi tháng có 06 đến 10 đợt giông tố, vùng có nhiều giông tố nhất gồm các huyện ở khu vực trung du, miền núi. Giông, lốc, sét là loại hình thiên tai gần như không thể dự báo trước được, nó thường xảy ra bất ngờ, phạm vi nhỏ nhưng sức tàn phá lớn. Tình hình diễn biến của giông, lốc, sét đang có xu thế xuất hiện bất thường, tăng về số lượng, mạnh về cường độ.
Qua thống kê, trên địa bàn tỉnh trong năm 2008 có 16 đợt giông tố làm chết 10 người, 03 người bị thương; năm 2009 có 09 đợt giông tố, lốc, sét làm chết 02 người; năm 2010 có 10 cơn giông tố, lốc sét làm 05 người chết, 08 người bị thương. Ngoài thiệt hại về người, các cơn giông, lốc, sét còn gây thiệt hại nghiêm trọng về nhà cửa, trụ sở làm việc, trường học, trạm xá, hoa màu của nhân dân ở các địa phương.
h) Hạn hán và xâm nhập mặn.
Tình hình hạn hán và xâm nhập mặn phụ thuộc vào chế độ mưa và dòng chảy mùa khô, tập trung chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 7 hằng năm. Với tác động của biến đổi khí hậu, hiện nay lượng mưa trong mùa khô trên địa bàn tỉnh có xu thế thấp hơn trung bình nhiều năm, lại phân bổ không đều trong các tháng, gây nên tình trạng hạn hán trong thời kỳ lúa Vụ Đông Xuân và Hè Thu làm đòng, trỗ bông; những năm hạn, xâm nhập mặn điển hình trong khoảng 10 năm qua là các năm 2003, 2004, 2010.
Xâm nhập mặn thường xảy ra khi thời tiết nắng nóng dài ngày, dòng chảy trên các cửa sông chính và sông nhánh bị suy kiệt và khi gặp triều cường, nước mặn xâm nhập sâu vào các cửa sông, có nơi lên đến 20km với độ mặn có lúc lên cao hơn 10‰, trong đó đáng lưu ý nhất là ở trên các sông Vĩnh Điện, Thu Bồn, Tam Kỳ. Xu thế xâm nhập mặn trên các sông ngày có diễn biến tăng và xuất hiện sớm hơn, gây ảnh hưởng cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân.
Theo báo cáo của các ngành, địa phương, đơn vị trên địa bàn tỉnh, từ năm 2001 đến nay, do ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn, đã có khoảng 122.000ha lúa, màu và trên 10.000ha cây công nghiệp ngắn, dài ngày bị khô hạn; ngoài ra, có khoảng 200.000 người dân bị thiếu nước sinh hoạt.
3. Tình hình thiệt hại do thiên tai gây ra trên địa bàn tỉnh từ năm 1997 đến năm 2009.
Theo báo cáo tổng hợp của Văn phòng Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão tỉnh Quảng Nam, từ năm 1997 đến 2009, thiên tai trên địa bàn tỉnh đã làm 663 người chết, 1.699 người bị thương, giá trị vật chất thiệt hại khoảng 9.578 tỷ đồng.
(Chi tiết thiệt hại theo phụ lục và các biểu đồ đính kèm).
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.