HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 89/NQ-HĐND |
Long An, ngày 10 tháng 12 năm 2022 |
NGHỊ QUYẾT
VỀ KẾT QUẢ GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
KHÓA X - KỲ HỌP THỨ 8
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;
Thực hiện Nghị quyết số 110/NQ-HĐND ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh thành lập Đoàn giám sát về công tác quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh Long An;
Xét Tờ trình số 1089/TTr-HĐND ngày 07 tháng 12 năm 2022 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc đề nghị ban hành Nghị quyết về kết quả giám sát chuyên đề công tác quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh và ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp.
QUYẾT NGHỊ
Điều 1. Hội đồng nhân dân tỉnh thống nhất với kết quả giám sát chuyên đề về công tác quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh nêu tại Báo cáo số 1068/BC-HĐND ngày 01 tháng 11 năm 2022 và nhấn mạnh một số nội dung sau:
1.1. Đối với việc quản lý đất công
Trong những năm qua, UBND tỉnh luôn quan tâm đến công tác quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công; triển khai, cụ thể hóa các quy định của pháp luật và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát về đất công; ban hành quy chế phối hợp, phân công, phân cấp cho từng sở ngành, địa phương trong quản lý, sử dụng đất công.
Công tác thống kê tổng hợp, tổ chức đo đạc, xác định, quản lý ranh mốc các khu, thửa đất công được các địa phương, đơn vị có trách nhiệm quản lý, thực hiện khá tốt theo quy định pháp luật. Theo số liệu tổng hợp, đến nay trên địa bàn tỉnh có 5.511 thửa đất công nhỏ, bào rọc, xen kẽ, với tổng diện tích 2.222 ha; có 12 khu đất công lớn, với tổng diện tích 2.991 ha. Trong 5.511 thửa đất công nhỏ hẹp, các địa phương đã bố trí kinh phí thực hiện đo đạc, xác định ranh giới 4.189 thửa đất, với diện tích 1.705 ha (chiếm 76,01 % về số thửa và 76,73% về diện tích).
1.2. Đối với việc đấu giá quyền sử dụng đất công
Ủy ban nhân dân tỉnh thường xuyên chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan và địa phương đảm bảo thực hiện các quy định về đấu giá quyền sử dụng đất công, tài sản công. Chủ động ban hành Quyết định 41/2018/QĐ-UBND ngày 07/8/2018 về phân cấp thẩm quyền phê duyệt giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất để giao có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, thuê mặt nước.
Các khâu tổ chức đo đạc xác định ranh mốc, phạm vi diện tích, giá khu đất; xây dựng, thẩm định, phê duyệt phương án đấu giá; xác định và phê duyệt giá khởi điểm; quyết định tổ chức đấu giá; lựa chọn và ký hợp đồng thuê đơn vị tư vấn thẩm định giá, tổ chức đấu giá; niêm yết, thông báo công khai về đấu giá; giám sát thực hiện cuộc bán đấu giá; phê duyệt kết quả trúng đấu giá; thu nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất sau khi có quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá; phương án phân bổ nguồn thu; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giao đất trên thực địa cho người trúng đấu giá... nhìn chung được các cơ quan liên quan cơ bản thực hiện theo quy trình, thủ tục quy định.
Việc tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất công đã góp phần tạo nguồn thu lớn cho ngân sách để đầu tư hạ tầng kỹ thuật, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nổi bật từ năm 2016 đến nay, huyện Đức Hòa đã tổ chức bán đấu giá đất công thu về ngân sách 1.318 tỷ đồng; Trung tâm Phát triển quỹ đất và Dịch vụ tài nguyên, môi trường thu về 1.132 tỷ đồng; huyện Cần Đước tậu về 150 tỷ đồng; huyện Thạnh Hóa thu về 149 tỷ đồng; huyện Tân Hưng thu về 14 tỷ đồng; ....
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu trong triển khai thực hiện việc quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh
2.1. Tồn tại, hạn chế
- Tỉnh chưa có quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng đất công toàn diện, hiệu quả; chưa rà soát, xác định đầy đủ danh mục các thửa đất công không còn nhu cầu sử dụng trên địa bàn tỉnh để có phương án xử lý phù hợp, hiệu quả.
- Việc quản lý, sử dụng đất công tại một số địa phương còn hạn chế: Hiện còn 1.322 thửa đất công (chiếm 23,99%) chưa hoàn thành việc đo đạc cắm mốc; việc cho thuê đất công ở một số địa phương chưa đảm bảo theo quy định (không đấu giá, không có hợp đồng, không đúng thẩm quyền, đối tượng, mục đích sử dụng đất)[1]; còn tình trạng lấn chiếm, tranh chấp lấn chiếm đất công kéo dài qua nhiều thời kỳ nhưng chưa được giải quyết, xử lý dứt điểm[2].
- Số liệu tổng hợp về hiện trạng quản lý, sử dụng đất công do UBND tỉnh báo cáo còn chênh lệch so với số liệu báo cáo của các địa phương[3]. Công tác quản lý sử dụng đất công tại các doanh nghiệp sau khi thực hiện cổ phần hóa còn hạn chế[4]. Cơ chế quản lý, xử lý các thửa đất công có nguồn gốc là đất của các nông lâm trường chưa chặt chẽ, nhất là trong việc lập hồ sơ quản lý, thực hiện cho thuê, đấu giá quyền sử dụng đất[5]. Công tác rà soát, giải quyết những tồn tại, vướng mắc về quản lý đất công theo các kết luận, chỉ đạo của cấp có thẩm quyền còn chậm[6].
- Việc xác định các thửa đất công để lập kế hoạch đấu giá quyền sử dụng đất nhằm mục tiêu chủ yếu là tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, chưa gắn với kế hoạch tổng thể về quản lý, sử dụng đất công hiệu quả, đảm bảo cho sự phát triển bền vững tại địa phương.
- Việc xây dựng phương án đấu giá quyền sử dụng đất công còn một số hạn chế như: phương án đấu giá chưa xem xét đầy đủ các phương án để chọn phương án đấu giá tối ưu (có đầu tư thêm hạ tầng hay không; thời điểm đấu giá); việc xác định giá khởi điểm một số khu đất công chưa sát với giá thị trường; công tác tổ chức đấu giá, kiểm soát quá trình thực hiện đấu giá theo quy định pháp luật còn một số bất cập[7].
- Công tác đấu giá quyền sử dụng đất công theo quy hoạch có mặt chưa đảm bảo, phải điều chỉnh quy hoạch khi đấu giá[8]; kế hoạch đấu giá tài sản gắn với chuyển nhượng quyền sử dụng đất công có trường hợp chưa đảm bảo điều kiện theo quy định về quản lý tài sản công[9]. Chưa xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật để xác định mức chi cho hoạt động tạo lập phát triển quỹ đất công làm cơ sở đặt hàng, giao nhiệm vụ theo quy định.
- Hiệu quả đạt được từ đấu giá quyền sử dụng đất công chưa cao. Tại một số thời điểm, giá trúng đấu giá chênh lệch tăng thêm còn thấp so với giá khởi điểm. Có trường hợp tổ chức, cá nhân tham gia đấu giá có biểu hiện tiêu cực trong quá trình đấu giá và sau đấu giá nhưng chưa được kiểm tra, chấn chỉnh kịp thời[10].
- Việc cho thuê đất không qua đấu giá quyền sử dụng đất đối với một số khu đất công có diện tích lớn[11] chưa đánh giá rõ cơ sở pháp lý, hiệu quả kinh tế, xã hội và loại đất công (đất có tài sản trên đất; đất do sắp xếp các tổ chức kinh tế;...).
2.2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
a) Nguyên nhân khách quan:
- Do yếu tố lịch sử, nguồn gốc đất công nên một số trường hợp lấn chiếm đất công xảy ra tranh chấp còn tồn đọng kéo dài nhiều giai đoạn, khó khăn trong việc thu thập các chứng cứ, thông tin đề giải quyết, xử lý dứt điểm theo quy định hiện hành. Hồ sơ pháp lý của các cơ sở nhà, đất do nhà nước quản lý chưa hoàn chỉnh, kéo dài qua nhiều thời kỳ.
- Kinh phí bố trí cho công tác đo đạc, cắm mốc, quản lý các thửa đất công còn khó khăn và thiếu các tổ chức tư vấn để thực hiện.
- Một số thửa đất công có diện tích nhỏ, nằm xen kẽ trong khu dân cư, khu công nghiệp, vị trí, hình dạng không đủ điều kiện tách thửa nên khó khăn trong công tác quản lý, triển khai đấu giá.
- Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai của một bộ phận người dân chưa cao (còn xảy ra tình trạng lấn chiếm đất công; chưa phối hợp trong việc xác định ranh mốc các thửa đất công, gây khó khăn cho công tác đo đạc cắm mốc).
- Quy định của pháp luật về xác định giá khởi điểm sát với giá thị trường chưa đầy đủ, rõ ràng. Thị trường bất động sản thường xuyên thay đổi nên công tác thu thập giá đất để xác định giá khởi điểm đấu giá gặp nhiều khó khăn.
- Công tác đấu thầu lựa chọn đơn vị tư vấn thẩm định giá đất công gặp nhiều khó khăn; khi tổ chức đấu thầu trên mạng, đơn vị tư vấn tham gia rất ít (có trường hợp đã đăng tải trên trang đấu thầu quốc gia 03 lần đều không tham gia).
b) Nguyên nhân chủ quan:
- Việc chỉ đạo quản lý và sử dụng đất công tại phần lớn địa phương, cơ quan liên quan thiếu tính hệ thống và chưa toàn diện. Việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách, quy định liên quan đến công tác đấu giá cơ sở nhà, đất công thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh chưa đồng bộ, kịp thời. Tỉnh chưa ban hành quy định về cơ chế tài chính tạo quỹ đất sạch để đấu giá quyền sử dụng đất, quản lý và khai thác quỹ đất công, gây khó khăn về cơ sở pháp lý để thực hiện.
- Sự phối hợp giữa các ngành chuyên môn và các địa phương chưa đồng bộ, nhất quán, chặt chẽ (nhất là trong việc quản lý đất nhỏ hẹp, xen kẻ, kênh, mương, khu đất công có diện tích lớn và các khu đất công có nguồn gốc từ nông trường để lại; cơ chế phối hợp về đấu giá phần đất công thuộc tỉnh quản lý trên địa bàn cấp huyện..). Sở, ngành chuyên môn chưa phát huy hết vai trò tích cực, chủ động đôn đốc và hướng dẫn các đơn vị, địa phương kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý, sử dụng, đấu giá quyền sử dụng đất công, đấu giá các cơ sở nhà, đất do nhà nước quản lý.
- Công tác quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra về quản lý, sử dụng đất công và cho thuê đất, đấu giá đất công theo quy định có mặt còn hạn chế, chưa sâu sát, toàn diện, hiệu quả, nhất là chưa có biện pháp xử lý kịp thời, dứt điểm các trường hợp lấn chiếm đất công.
- Chất lượng, số lượng cán bộ làm công tác liên quan đến quản lý, đấu giá đất công có mặt còn hạn chế (nhất là công tác cập nhật, chỉnh lý biến động đất đai, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai thực hiện còn chậm; chưa đáp ứng yêu cầu trong việc vận dụng các quy định pháp luật và dự báo thị trường để xây dựng phương án đấu giá theo quy hoạch được duyệt, việc xác định giá khởi điểm, kiểm soát quá trình đấu giá).
3. Trách nhiệm của các cơ quan có liên quan
3.1. Đối với UBND tỉnh: Chịu trách nhiệm việc chưa sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc triển khai thực hiện toàn diện công tác quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công theo quy định; chưa ban hành kịp thời các văn bản về định mức kỹ thuật đối với tổ chức được giao nhiệm vụ tạo lập, phát triển quỹ đất công, về cơ chế tạo quỹ đất sạch để đấu giá; chậm ban hành quy định về quản lý đất bìa chéo, xen kẻ (đất có diện tích nhỏ, lẻ); chưa ban hành cơ chế tài chính phân bổ nguồn thu đấu giá đất công giữa ngân sách tỉnh, huyện; chưa quan tâm chỉ đạo đảm bảo kinh phí để thực hiện công tác đo đạc, xác định ranh mốc, lập hồ sơ pháp lý đất công.
3.2. Đối với Sở Tài nguyên và Môi trường: Chịu trách nhiệm về những tồn tại hạn chế được Đoàn giám sát nêu ra trong Thông báo kết luận khi giám sát tại Sở Tài nguyên và Môi trường và Trung tâm Phát triển quỹ đất và Dịch vụ tài nguyên, môi trường; chịu trách nhiệm về những tồn tại, hạn chế trong quản lý dữ liệu, hồ sơ pháp lý đất công; chậm tham mưu, đề xuất UBND tỉnh ban hành các văn bản liên quan đến quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công. Công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành có mặt chưa sâu sát; việc theo dõi đôn đốc thực hiện các kết luận sau thanh tra chưa được quan tâm thường xuyên.
3.3. Đối với Sở Tài chính: Chịu trách nhiệm về các tồn tại hạn chế được Đoàn giám sát nêu ra trong Thông báo kết luận khi giám sát tại Sở Tài chính, nhất là chưa phát huy hết vai trò chủ động trong công tác tham mưu hoặc phối hợp tham mưu, quản lý, hướng dẫn các đơn vị, địa phương kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong xác định giá khởi điểm đấu giá tài sản gắn với quyền sử dụng đất công. Hạn chế trong công tác phối hợp với các sở, ngành, địa phương thẩm định về điều kiện theo quy định pháp luật, hiệu quả kinh tế - xã hội khi thẩm định kế hoạch đấu giá tài sản công gắn với quyền sử dụng đất công.
3.4. Đối với Sở Tư pháp: Chịu trách nhiệm về các tồn tại hạn chế được Đoàn giám sát nêu ra trong Thông báo kết luận khi giám sát tại Sở Tư pháp. Thiếu chủ động, sâu sát trong tham mưu UBND tỉnh về công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất công theo quy định của tỉnh. Chưa phát huy tốt vai trò của ngành trong việc quản lý, phát triển các tổ chức đấu giá và đào tạo nguồn đấu giá viên trên địa bàn tỉnh.
3.5. Đối với UBND cấp huyện được giám sát: Chịu trách nhiệm về các tồn tại hạn chế được Đoàn giám sát nêu ra trong Thông báo kết luận khi giám sát tại các địa phương. Chịu trách nhiệm đối với các nguyên nhân chủ quan nêu trên theo phân cấp quản lý trong quản lý, sử dụng và đấu giá quyền sử dụng đất công, nhất là những bất cập, thiếu sót về hồ sơ pháp lý, lưu trữ hồ sơ đất công, giải quyết tranh chấp lấn chiếm đất công; xây dựng kế hoạch, phương án và tổ chức đấu giá quyên sử dụng đất công; về hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng đất công tại địa phương.
Điều 2. Hội đồng nhân dân tỉnh yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ngành, địa phương:
1. Tiếp tục phát huy kết quả đạt được, có giải pháp tháo gỡ, khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu cụ thể trong của Báo cáo số 1068/BC-HĐND ngày 01 tháng 12 năm 2022 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh.
2. Tập trung triển khai thực thực các nhiệm vụ, giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh, trọng tâm là:
2.1. Khẩn trương tổng rà soát và đánh giá, phân loại các loại đất công để xây dựng kế hoạch tổng thể về quản lý, sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh; đồng thời rà soát lại cơ chế quản lý để hoàn chỉnh theo thẩm quyền, giải quyết những tồn tại, hạn chế nêu trên; có kế hoạch quản lý, sử dụng đất công đối với phần diện tích tăng thêm từ kết quả phân giới cắm mốc khu vực biên giới, do thu hồi từ các doanh nghiệp thuê theo Luật Đất đai. Từ đó xác định danh mục các cơ sở nhà, đất công không còn nhu cầu sử dụng để có phương án xử lý phù hợp, hiệu quả, đúng quy định pháp luật hiện hành.
Cần ưu tiên bố trí các thửa đất công cho các công trình công cộng, dự trữ theo quy hoạch phát triển của tỉnh, nhất là phục vụ mục đích công cộng; hạn chế việc chuyển đổi các khu đất công tại các vị trí trung tâm sang đất ở, dân cư để tổ chức đấu giá; các khu, thửa đất công không có nhu cầu sử dụng cho mục đích công (về lâu dài) cần được phân loại: các thửa đất dự kiến đấu giá, các thửa đất công giao, cho thuê theo quy định pháp luật. Đối với đất công đủ điều kiện đấu giá cân có kế hoạch, phương án bán đấu giá, đánh giá toàn diện về hiệu quả kinh tế, xã hội và xác định thời điểm, phương thức đấu giá cụ thể trước khi tiến hành đấu giá.
2.2. Khẩn trương hoàn thành việc đo đạc, xác định, quản lý ranh mốc, cấp giấy CNQSD đất để hoàn thiện hồ sơ pháp lý, giải quyết xử lý dứt điểm các trường hợp lấn chiếm đất công, khẩn trương rà soát, cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công; cải tiến quy trình, công nghệ quản lý, cập nhật chỉnh lý biến động, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đảm bảo đồng bộ giữa các cấp. Trên cơ sở đó, cập nhật vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo đúng quy định, chủ trương của tỉnh, phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời công bố công khai đến người dân theo quy định. Ưu tiên bố trí kinh phí từ nguồn thu tiền sử dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất công cho công tác đo đạc, cắm mốc các khu, thửa đất công, làm cơ sở cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý đất công trên địa bàn tỉnh.
2.3. Tăng cường công tác triển khai, phổ biến pháp luật liên quan đến công tác đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất công, nhất là việc vận dụng đầy đủ, đúng quy định pháp luật, phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo hiệu quả cao; khi xây dựng kế hoạch đấu giá tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất công phải được đánh giá trên cơ sở thật sự dôi dư, không còn nhu cầu sử dụng, đảm bảo điều kiện theo quy định về quản lý tài sản công. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ đấu giá viên trên địa bàn; tổ chức triển khai, hướng dẫn Thông tư số 02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản.
2.4. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới quy định về quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công, trong đó chú trọng nội dung còn thiếu về cơ chế tạo quỹ đất sạch, về đấu giá quyền sử dụng đất công để thực hiện các dự án đầu tư có giá trị lớn, có vị trí thuận lợi, tiềm năng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; có cơ chế phân bổ nguồn thu ngân sách khi đấu giá quyền sử dụng đất cho các địa phương.
2.5. Khẩn trương đưa vào áp dụng rộng rãi việc kết hợp hai phương thức đấu giá trong một cuộc đấu giá; đăng nhập công khai tài sản công đấu giá trên Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài sản theo quy định tại Điều 57 Luật Đấu giá tài sản; công bố trên Cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp đối với danh sách các tổ chức đấu giá tài sản có hành vi vi phạm đã bị cơ quan có thẩm quyền xử lý để làm căn cứ cho người có tài sản xem xét, lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản có năng lực, uy tín, kinh nghiệm.
2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật đối với các tổ chức tư vấn đấu giá, tránh tình trạng thông đồng, dìm giá trong các cuộc bán đấu giá tài sản công; kịp thời phát hiện, có giải pháp xử lý, khắc phục những tồn tại hạn chế, xóa bỏ các cuộc đấu giá mang tính hình thức trong hoạt động đấu giá và ngăn chặn các hành vi tiêu cực trong công tác đấu quyền sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh.
Trước hết là, chỉ đạo thanh tra, kiểm tra để giải quyết theo thẩm quyền đối với những tồn đọng, vướng mắc liên quan đến đấu giá quyền sử dụng đất công, tạo quỹ đất sạch để đấu giá chưa được giải quyết hiệu quả mà Đoàn giám sát đã đặt ra; chỉ đạo rà soát, kiểm tra lại danh mục cơ sở nhà, đất công hiện nay do các sở, ngành, địa phương đang thực hiện để kịp thời chấn chỉnh đối với các trường hợp chưa đảm bảo yêu cầu về cơ sở pháp lý, sử dụng hiệu quả góp phần phát triển kinh tế - xã hội theo quy định.
2.7. Đối với các trường hợp cho thuê đất công có nguồn gốc từ các tổ chức kinh tế để thực hiện các dự án đầu tư ngoài ngân sách nhà nước, không qua đấu giá và có thời gian từ sau ngày 01/01/2018: đề nghị UBND tỉnh rà soát lại cơ sở pháp lý để có giải pháp xử lý đúng theo quy định pháp luật hiện hành.
2.8. Giải quyết các vấn đề cụ thể nêu tại mục 3.2 của Báo cáo số 1068/BC-HĐND ngày 01 tháng 12 năm 2022 của Đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Giao Ủy ban nhân dân tỉnh và các cơ quan liên quan tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả nghị quyết này. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm tổng hợp, báo cáo kết quả tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết này đến Hội đồng nhân dân tỉnh vào kỳ hợp lệ cuối năm (bắt đầu từ kỳ hợp lệ cuối năm 2023) và theo yêu cầu của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh.
2. Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết.
3. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh phối hợp giám sát việc thực hiện nghị quyết; chủ động đề nghị, kiến nghị đến Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về các vấn đề có liên quan đến công tác quản lý và đấu giá quyền sử dụng đất công trên địa bàn tỉnh để giải quyết theo thẩm quyền.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh khóa X, kỳ họp thứ 8 (kỳ hợp lệ cuối năm 2022), thông qua ngày 10 tháng 12 năm 2022 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày Hội đồng nhân dân tỉnh thống nhất thông qua./.
|
CHỦ TỊCH |
[1] Huyện: Đức Huệ, Thạnh Hóa và thị xã Kiến Tường.
[2] Diện tích đất bị lấn, chiếm trải qua lịch sử, nhiều thời kỳ là 216,35 ha (chủ yếu ở các huyện Thạnh Hóa, Tân Hưng, Đức Hòa, Cần Đước, Cần Giuộc và thị xã Kiến Tường, ...).
[3] Đa số các đơn vị Đoàn đến khảo sát đều báo cáo số liệu không khớp với số liệu trong Báo cáo của UBND tỉnh.
[4] Còn 29/32 doanh nghiệp chưa xây dựng phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa, sử dụng đất sai mục đích, chưa đúng theo mục tiêu đầu tư, dẫn đến sai phạm Điều 64 Luật Đất đai năm 2013 phải thu hồi đất.
[5] Huyện Đức Huệ: 168,69 ha (đất thu hồi của Đoàn xây dựng kinh tế Đồng Tháp V); Mộc Hóa: 246,78 ha (đất thu hồi của Đoàn xây dựng kinh tế Đồng Tháp 2 và Công ty DVSX nông - lâm nghiệp Đồng Tháp 2); Thị xã Kiến Tường: 494,01 ha (đất thu hồi của phòng lâm nghiệp Mộc Hóa); Thạnh Hóa: 260 ha (đất thu hồi của Phân viện khoa học lâm nghiệp Nam Bộ), Tân Hưng: 1.122,60 ha (đất nông - lâm trường được giao quản lý).
[6] Huyện: Thạnh Hóa, Tân Hưng, Đức Hòa, Cần Đước.
[7] Cụ thể:
- Việc lựa chọn phương thức đấu giá tài sàn công gắn với quyền sử dụng đất công chưa phân tích đánh giá đầy đủ về cơ sở pháp lý và hiệu quả kinh tế (như đấu giá tài sản công là cơ sở vật chất không còn sử dụng nhiều năm của Trường THCS Hậu Nghĩa với diện tích đất công quy hoạch khu dân cư đô thị 8.836m2).
- Việc xác định giá khởi điểm quỹ đất công ở một số địa phương còn bất cập như: Kiến Tường chưa xây dựng phương án giá khởi điểm nên việc xác định giá khởi điểm để đấu giá chưa đảm bảo theo đúng quy định; Thạnh Hóa, Tân Hưng xác định giá khởi điểm chưa sát với giá thị trường.
[8] Việc đấu giá Khu dân cư nông thôn mới Bình Cách dưới 10ha chưa đúng theo quy định hiện hành của UBND tỉnh (trước đây đấu giá để đầu tư khu chế biến nông sản nhưng nay đấu giá để đầu tư khu dân cư
[9] Việc thu hồi đất thuộc Trung tâm Văn hóa thông tin và Truyền thanh thành phố Tân An (vị trí ở phường 6) giao TTPTQĐ và DVTNMT quy hoạch khu dân cư để tổ chức đấu giá trong khi chưa làm rõ điều kiện dôi dư, không có nhu cầu sử dụng.
[10] 05 cá nhân đấu giá có giá chênh lệch thấp và đều chuyển nhượng lai cho một chủ thể ngay sau khi hoàn thành thủ tục pháp lý ở thị xã Kiến Tường
[11] UBND huyện Đức Huệ cho thuê đất không thông qua đấu giá theo quy định pháp luật đối với khu đất diện tích 46,79ha (theo Kết luận của Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy tại Công văn số 1555-CV/UBKTTU ngày 19/12/2019); trên địa bàn huyện Đức Huệ có 04 khu đất công có nguồn gốc từ đơn vị sản xuất kinh doanh cho thuê không thông qua đấu giá (tháng 6/2018).
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.