PHỦ THỦ TƯỚNG |
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 432-TTg |
Hà Nội, ngày 25 tháng 09 năm 1957 |
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Chiếu Sắc luật số 004-LSt ngày 20 tháng 07
năm 1957 về bầu cử Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp;
Theo đề nghị của Bộ Nội vụ,
NGHỊ ĐỊNH :
Điều 1. – Nghị định này quy định chi tiết thi hành Sắc luật số 004-SLt ngày 20 tháng 07 năm 1957 về bầu cử Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp, gồm có các mục:
I. - Về điều kiện bầu và ứng cử.
II. - Về đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu.
III. - Về danh sách cử tri và ứng cử.
IV. - Về đầu phiếu.
V. - Về kiểm phiếu, sơ kết tổng kết.
VI. - Về việc in các giấy tờ cần thiết cho cuộc bầu cử.
VII. - Về bầu cử Hội đồng Nhân dân ở các khu Tự trị và miền núi.
VIII. - Về bầu cử Ủy ban Hành chính các cấp.
IX. - Về điều khoản thi hành.
Mục I: VỀ ĐIỀU KIỆN BẦU VÀ ỨNG CỬ
Điều 2. – Tuổi bầu cử (18 tuổi) và tuổi ứng cử (21 tuổi) quy định trong điều 2 Sắc luật bầu cử là tính đến năm bầu cử. Thí dụ: năm bầu cử là năm 1957 thì cử tri phải sinh trong năm 1939 hay là sinh trước năm đó, và người ứng cử phải sinh trong năm 1936 hay là sinh trước năm đó.
Điều 3. – Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách cử tri ở một nơi.
Mục II: VỀ ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều 4. – Ủy ban Hành chính cấp nào sẽ quy định tên hay là số hiệu cho các đơn vị bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp ấy.
Điều 5. – Để tiện cho việc bỏ phiếu và kiểm phiếu, các thị xã (không có khu phố), thị trấn, khu phố và xã sẽ chia thành những khu vực bỏ phiếu như sau:
- Ở các thị xã (không có khu phố), thị trấn, khu phố dưới 1.000 nhân khẩu thì thành lập một khu vực bỏ phiếu.
- Ở các thị xã (không có khu phố), thị trấn, khu phố trên 1.000 nhân khẩu thì từ 600 đến 3.000 nhân khẩu thành lập một khu vực bỏ phiếu.
- Ở các xã: những thôn dưới 1.000 nhân khẩu thì thành lập một khu vực bỏ phiếu; những thôn trên 1.000 nhân khẩu thì từ 600 đến 2.000 nhân khẩu thành lập một khu vực bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu gồm một xóm hoặc nhiều xóm.
- Ở các xã miền núi: những xóm, liên xóm hoặc thôn là một khu vực bỏ phiếu.
Điều 6. – Các bệnh viện, nhà hộ sinh, an dưỡng đường, nhà nuôi người tàn tật có từ 50 cử tri trở lên (bệnh nhân, người đẻ, người an dưỡng, người tàn tật) thuộc đơn vị bầu cử nào có thể tổ chức thành khu vực bỏ phiếu riêng trong đơn vị bầu cử ấy.
Điều 7. – Các khu vực bỏ phiếu phải được Ủy ban Hành chính thị xã (không chia khu phố), thị trấn, khu phố và xã công bố, chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử, bằng báo chí, phát thanh, yết thị, hoặc bằng mọi phương tiện thông thường của địa phương.
Mục III: VỀ DANH SÁCH CỬ TRI VÀ ỨNG CỬ
Điều 8. – Danh sách cử tri lập theo mẫu kèm sau (mẫu số 1) có ghi: Họ tên, tuổi, là nam hay nữ, chỗ ở, dân tộc.
Điều 9. – Khi đã niêm yết danh sách cử tri, các cấp lập danh sách cử tri phải loan báo ngay việc niêm yết ấy bằng báo chí, phát thanh, hoặc bằng mọi phương tiện thông thường của địa phương.
Điều 10. – Mọi sự khiếu nại về danh sách cử tri đều không phải chịu một khoản lệ phí nào.
Điều 11. – Tòa án nhân dân huyện, châu hay là thành phố, nhận được giấy khiếu nại phải xét xử xong trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được giấy. Quyết định của tòa án là quyết định cuối cùng.
Điều 12. – Chậm nhất là 03 ngày trước ngày bầu cử, các cơ quan lập danh sách cử tri phải gửi cho tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu bản danh sách cử tri và mọi sự sửa đổi nếu có trong bản danh sách.
Điều 13. – Danh sách ứng cử lập theo đơn vị bầu cử và theo mẫu kèm sau (mẫu số 2) có ghi: số thứ tự, họ tên, tuổi, là nam hay nữ, nghề nghiệp, chỗ ở, dân tộc.
Điều 14. – Ở những địa phương không có cấp bộ của Mặt trận Tổ quốc thì các đoàn thể trong Mặt trận cũng có thể giới thiệu người ra ứng cử.
Điều 15. – Chậm nhất là 10 ngày trước ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử phải gửi cho Ban bầu cử bản danh sách những người ứng cử và mọi sự sửa đổi nếu có trong bản danh sách này.
Điều 16. – Trước ngày bầu cử 10 ngày, Tổ bầu cử phải thường xuyên báo cho cử tri biết ngày bầu cử và địa điểm phòng bỏ phiếu bằng yết thị, phát thanh hoặc bằng mọi phương tiện thông thường của địa phương.
Điều 17. – Phiếu bầu cử phải có đóng dấu của cơ quan hay đơn vị lập danh sách cử tri. Dấu đóng ở mặt sau lá phiếu.
Điều 18. – Cơ quan lập thẻ cử tri là cơ quan lập danh sách cử tri. Thẻ cử tri do tổ bầu cử phân phối tới tay cử tri, chậm nhất là hai ngày trước ngày bầu cử.
Điều 19. – Phòng bỏ phiếu phải đặt ở một nơi thuận tiện cho nhân dân. Cần bố trí lối vào chỗ đặt hòm phiếu và lối ra khác nhau.
Các bàn viết phiếu phải đặt cách xa nhau. Trên mỗi bàn phải có bút, mực, giấy thẩm và danh sách những người ứng cử của đơn vị bầu cử.
Điều 20. – Trong ngày bầu cử, tổ bầu cử chịu trách nhiệm về những biện pháp cần thi hành để giữ gìn trật tự ở trong và ở chung quanh phòng bỏ phiếu.
Điều 21. – Hòm phiếu phải kín, chỉ để một khe hở vừa đủ để bỏ lá phiếu và phải có khóa. Thìa khóa do tổ trưởng tổ bầu cử giữ.
Điều 22. – Khi đến giờ bỏ phiếu, tổ bầu cử (có đủ mặt nhân viên) phải kiểm soát lại hòm phiếu, mở hòm phiếu ra để các cử tri có mặt chứng kiến là trong hòm phiếu không có gì, sau đó khóa và niêm phong hòm phiếu lại, rồi mời các cử tri vào bỏ phiếu.
Điều 23. – Khi vào phòng bỏ phiếu, cử tri phải xuất trình thẻ cử tri cho nhân viên tổ bầu cử. Nhân viên này kiểm soát và sau khi đã ghi chú vào danh sách cử tri sẽ trao cho cử tri một phiếu bầu có đóng dấu của cơ quan lập danh sách cử tri.
Điều 24. – Mọi người đều có quyền khiếu nại về căn cước của tất cả cử tri đến bỏ phiếu. Tổ trưởng tổ bầu cử sẽ xét lại căn cước của người bỏ phiếu: nếu xét thấy lời khiếu nại là đúng thì sẽ không cho bỏ phiếu và lập biên bản về việc đó.
Điều 25. – Muốn bầu cho người ứng cử nào thì cử tri biên họ tên người ấy vào phiếu, sau đó gập phiếu lại để mặt lá phiếu có đóng dấu ra ngoài, rồi bỏ vào hòm phiếu.
Điều 26. – Nếu có nhiều người ứng cử họ tên và chữ đệm trùng nhau thì khi viết phiếu bầu phải viết thêm tuổi hoặc địa chỉ của người ứng cử.
Điều 27. – Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nhưng còn một số cử tri có mặt ở phòng bỏ phiếu chưa kịp bỏ phiếu thì cần để số cử tri này bỏ phiếu cho xong. Sau đó, tổ trưởng tổ bầu cử mới tuyên bố cuộc bỏ phiếu kết thúc và bắt đầu kiểm phiếu.
Mục V: VỀ KIỂM PHIẾU, SƠ KẾT, TỔNG KẾT
Điều 28. – Những phiếu bầu có biên tên một hay nhiều người không ứng cử vẫn được coi là hợp lệ, nhưng tên những người không ứng cử này thì không kể.
Tổ bầu cử không được xóa hay là chữa các tên ghi trên phiếu bầu.
Điều 29. – Trong biên bản kiểm phiếu của tổ bầu cử làm theo mẫu kèm sau (mẫu số 3), phải ghi:
- Giờ bắt đầu và giờ kết thúc cuộc bỏ phiếu.
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu.
- Số cử tri đã đi bầu.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu trắng.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử.
- Quyết định của tổ bầu cử về những phiếu nghi ngờ.
- Tóm tắt những việc xảy ra và những khiếu nại trong việc bầu cử, cách giải quyết của tổ bầu cử.
Điều 30. – Biên bản kiểm phiếu của tổ bầu cử lập thành ba bản có chữ ký của toàn tổ hay là ít nhất là tổ trưởng và thư ký và của hai cử tri được mời chứng kiến cuộc kiểm phiếu: một bản gửi đến Ban bầu cử, một bản đính vào hồ sơ bầu cử do tổ bầu cử giữ, một bản niêm yết tại phòng bỏ phiếu.
Điều 31. – Người ứng cử (hoặc người được ứng cử viên chính thức ủy nhiệm) và các phóng viên báo chí, điện ảnh được quyền tham quan lúc kiểm phiếu.
Điều 32. – Sau khi đã tập trung kết quả bầu cử của tất cả các khu vực bỏ phiếu, Ban bầu cử sẽ làm biên bản sơ kết cuộc bầu cử của đơn vị theo mẫu kèm sau (mẫu số 4).
Biên bản phải ghi:
- Số đại biểu ấn định cho đơn vị bầu cử.
- Số người ứng cứ.
- Tổng số cử tri của đơn vị bầu cử.
- Số cử tri đã đi bầu.
- Số phiếu hợp lệ.
- Số phiếu không hợp lệ.
- Số phiếu trắng.
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử.
- Danh sách những người được trúng cử.
- Tuyên bố cuộc bầu cử phải làm lại vì số cử tri đi bầu của toàn đơn vị không quá nửa số cử tri ghi trong danh sách (nếu có).
- Số đại biểu phải bầu thêm vì số người trúng cử chưa đủ số đại biểu phải bầu (nếu có).
Biên bản lập thành hai bản có chữ ký của toàn Ban bầu cử hay là ít nhất của trưởng ban và thư ký.
Điều 33. – Biên bản sơ kết bầu cử của mỗi đơn vị bầu cử gửi đến Hội đồng bầu cử, kèm theo các giấy khiếu nại và các biên bản của các tổ bầu cử, tất cả xếp thành một hồ sơ niêm phong lại, có chữ ký của toàn ban bầu cử hay là ít nhất của trưởng ban và thư ký.
Ban bầu cử gửi đến các tổ bầu cử bản trích lục (số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử và kết luận của ban bầu cử) biên bản sơ kết cuộc bầu cử của đơn vị bầu cử. Bản trích lục này phải có chữ ký của trưởng ban bầu cử và phải được niêm yết tại các phòng bỏ phiếu.
Điều 34. – Trường hợp đơn vị bầu cử chỉ có một khu vực bỏ phiếu thì ban bầu cử kiêm luôn nhiệm vụ của tổ bầu cử, và chỉ lập một biên bản sơ kết bầu cử theo mẫu số 4.
Điều 35. – Hội đồng bầu cử của mỗi cấp lập biên bản tổng kết chung cho toàn cấp mình theo mẫu kèm sau (mẫu số 5).
Biên bản phải ghi:
- Tổng số đại biểu ấn định cho cấp bầu Hội đồng nhân dân.
- Tổng số người ứng cử.
- Tổng số cử tri của cấp bầu Hội đồng nhân dân.
- Tổng số cử tri đã đi bầu.
- Tổng số phiếu hợp lệ.
- Tổng số phiếu không hợp lệ.
- Tổng số phiếu trắng.
- Danh sách những người trúng cử trong mỗi đơn vị bầu cử.
- Những đơn vị bầu cử phải tổ chức cuộc bầu lần thứ 2, vì số cử tri đi bầu không được quá nửa số ghi trong danh sách (nếu có).
- Số đại biểu phải bầu thêm tại một số đơn vị bầu cử, vì số người trúng cử chưa đủ số đại biểu phải bầu (nếu có).
- Các việc khiếu nại và ý kiến của Hội đồng bầu cử về các việc khiếu nại.
- Nhận xét chung về cuộc bầu cử.
Biên bản phải có chữ ký của tất cả các hội viên trong Hội đồng hay là ít nhất chữ ký của Chủ tịch và thư ký.
Điều 36. – Biên bản tổng kết bầu cử phải gửi lên cấp có thẩm quyền xét duyệt nói ở điều 51 Sắc luật số 004-SLt ngày 20 tháng 07 năm 1957.
Trích lục (kết quả cuộc bầu cử và kết luận của Hội đồng bầu cử) biên bản tổng kết bầu cử phải được niêm yết tại các nơi công cộng ở địa phương; kết quả cuộc bầu cử phải được phổ biến rộng rãi bằng mọi phương tiện thông tin thông thường của địa phương.
Điều 37. – Việc xét duyệt nói ở điều 51 Sắc luật số 004-SLt ngày 20-07-1957 nhằm xác nhận cuộc bầu cử tiến hành hợp lệ hay không.
Điều 38. – Nếu có cuộc bầu lại hay bầu thêm, danh sách cử tri dùng trong cuộc bầu lần thứ nhất, cũng vẫn dùng trong cuộc bầu lần thứ hai.
Điều 39. – Khi cấp có thẩm quyền đã chính thức công nhận kết quả cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân thì Hội đồng bầu cử, ban bầu cử và tổ bầu cử đều giải tán.
Điều 40. – Trước khi giải tán, Hội đồng bầu cử phải gửi tất cả hồ sơ của cuộc bầu cử đến Ủy ban Hành chính sở quan lưu trữ.
Mục VI: VỀ VIỆC IN CÁC GIẤY TỜ CẦN THIẾT CHO CUỘC BẦU CỬ
Điều 41. – Các Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Thái – Mèo, Khu Hồng Quảng, thành phố và tỉnh phụ trách in các giấy tờ cần thiết cho toàn địa phương mình như: phiếu bầu, thẻ cử tri, danh sách cử tri, danh sách những người ứng cử, biên bản các loại, theo các mẫu thống nhất đã định.
Mục VII: VỀ BẦU CỬ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Ở CÁC KHU TỰ TRỊ VÀ MIỀN NÚI
Điều 42. – Mỗi xã, thị trấn, thị xã là một khu vực bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp châu, tỉnh, khu. Phòng bỏ phiếu đặt tại trụ sở Ủy ban Hành chính xã, thị trấn, thị xã.
Điều 43. – Các việc lập danh sách cử tri, ứng cử, tổ chức bầu cử đều theo đúng các điều khoản đã ấn định trong các tiết 4, 5, 6, 7 thuộc chương I của Sắc luật về bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp.
Điều 44. – Bộ Nội vụ sẽ quyết định những tỉnh nào phải áp dụng những thể lệ bầu cử, ứng cử quy định cho miền núi theo đề nghị của Ủy ban Hành chính khu và tỉnh trực thuộc trung ương. Ủy ban Hành chính tỉnh sẽ quyết định những xã nào phải áp dụng những thể lệ bầu cử, ứng cử quy định cho miền núi theo đề nghị của Ủy ban Hành chính huyện.
Mục VIII: VỀ BẦU CỬ ỦY BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP
Ở những cấp có Hội đồng nhân dân:
Điều 45. – Ở những cấp có Hội đồng nhân dân, chậm nhất là mười ngày sau khi tiếp được quyết định của cấp có thẩm quyền chính thức công nhận kết quả của cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân thì Ủy ban Hành chính sẽ gửi giấy triệu tập Hội đồng nhân dân để bầu Ủy ban Hành chính mới.
Ngày họp Hội đồng nhân dân chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày gửi giấy triệu tập đối với Hội đồng nhân dân các cấp và 20 ngày đối với Hội đồng nhân dân Khu Tự trị.
Điều 46. – Trong cuộc họp để bầu Ủy ban Hành chính, thư ký cuộc họp là một ủy viên Ủy ban Hành chính.
Điều 47. – Sau khi cuộc họp Hội đồng nhân dân đã khai mạc và cử Chủ tịch đoàn, ai ra ứng cử vào Ủy ban Hành chính sẽ báo cho Chủ tịch đoàn rõ. Danh sách những người ứng cử sẽ được công bố và niêm yết trong phòng họp.
Điều 48. – Khi cuộc bỏ phiếu và kiểm phiếu xong, Chủ tịch đoàn phải lập biên bản ngay theo mẫu kèm sau (mẫu số 6). Biên bản phải có chữ ký của các hội viên có chân trong Chủ tịch đoàn và của ủy viên làm thư ký cuộc họp và phải niêm yết ngay tại trụ sở Ủy ban Hành chính. Nếu trong cuộc bầu lần thứ nhất không ai đủ phiếu để trúng cử hoặc số người trúng cử chưa đủ số định bầu thì sẽ tổ chức bỏ phiếu lần thứ hai ngay để bầu lại hay là bầu thêm.
Ở những cấp không có Hội đồng nhân dân:
Điều 49. – Ở những cấp không có Hội đồng nhân dân, chậm nhất là 10 ngày sau khi các Hội đồng nhân dân cấp dưới một cấp đã được chính thức công nhận thì Ủy ban Hành chính khu hay là huyện định và công bố ngày bầu cử Ủy ban Hành chính mới, chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử.
Điều 50. – Ai ứng cử vào Ủy ban Hành chính cấp nào phải gửi đơn đến Ủy ban Hành chính cấp ấy, chậm nhất là 15 ngày trước ngày bầu cử.
Điều 51. – Khi hết hạn nộp đơn ứng cử, Ủy ban Hành chính khu hay là huyện sẽ lập danh sách ứng cử và niêm yết tại trụ sở Ủy ban Hành chính khu hay là huyện và tại trụ sở các Ủy ban Hành chính dưới một cấp, chậm nhất là 10 ngày trước ngày bầu cử.
Điều 52. – Chậm nhất là 15 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban Hành chính khu hay là huyện sẽ thành lập một Hội đồng bầu cử gồm từ 3 đến 5 đại biểu các giới và các đoàn thể nhân dân trong địa phương, tất cả đều phải là người không ra ứng cử và phải biết đọc biết viết.
Hội đồng bầu cử tự bầu ra một Chủ tịch, một Phó chủ tịch và hai thư ký.
Điều 53. – Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng bầu cử như sau:
- Đôn đốc và kiểm tra việc thi hành luật lệ bầu cử.
- Xét và giải quyết những khiếu nại về ứng cử.
- Tiếp nhận và kiểm soát biên bản bầu cử do các tổ bầu cử gửi đến, làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử để gửi cấp có thẩm quyền xét duyệt nói ở điều 63 Sắc luật số 004-SLt ngày 20 tháng 07 năm 1957.
- Tuyên bố và niêm yết kết quả cuộc bầu cử.
Sau khi bầu cử, nếu có giấy khiếu nại thì do Hội đồng bầu cử tiếp nhận, xét và để ý kiến để cấp có thẩm quyền công nhận cuộc bầu nói ở điều 63 Sắc luật số 004-SLt ngày 20-07-1957 quyết định.
Hội đồng bầu cử không được vận động bầu cử cho một danh sách hay là một cá nhân nào.
Điều 54. – Ai khiếu nại về ứng cử đều phải gửi giấy đến Hội đồng bầu cử, chậm nhất là bảy ngày trước ngày bầu cử. Hội đồng bầu cử phải xét và quyết định trong thời hạn ba ngày. Quyết định của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.
Điều 55. – Trong các cuộc bầu cử Ủy ban Hành chính ở những cấp không có Hội đồng nhân dân thì mỗi đơn vị hành chính dưới một cấp là một khu vực bỏ phiếu.
Điều 56. – Giấy triệu tập Hội đồng nhân dân để bầu Ủy ban Hành chính (ở những cấp không có Hội đồng nhân dân) do Ủy ban Hành chính cấp dưới một cấp gửi đến hội viên Hội đồng nhân dân cấp mình 5 ngày trước ngày bầu cử.
Cuộc bầu cử sẽ tiến hành trong phiên họp Hội đồng nhân dân và do Chủ tịch đoàn phụ trách điều khiển.
Điều 57. – Khi cuộc bỏ phiếu và kiểm phiếu xong. Chủ tịch đoàn phải lập biên bản ngay, theo mẫu kèm sau (mẫu số 7) để gửi đến Hội đồng bầu cử, biên bản phải có chữ ký của các hội viên có chân trong Chủ tịch đoàn và của ủy viên làm thư ký cuộc họp.
Điều 58. – Sau khi nhận được các biên bản kiểm phiếu của các khu vực bỏ phiếu, Hội đồng bầu cử làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử theo mẫu kèm sau (mẫu số 8).
Điều 59. – Nếu có cuộc bầu lại hoặc bầu thêm thì Ủy ban Hành chính, nói ở điều 52, định ngày bầu cử lần thứ hai và báo cho các Ủy ban Hành chính dưới một cấp biết.
Cuộc bầu cử lần thứ hai tiến hành chậm nhất là hai tuần lễ sau cuộc bầu cử lần thứ nhất.
Điều 60. – Ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.
|
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.