HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 40-CP |
Hà Nội, ngày 07 tháng 2 năm 1980 |
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng
Chính phủ 14 tháng 7 năm 1960;
Theo đề nghị của đồng chí Bộ trưởng Bộ Ngoại thương;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong các phiên họp của Thường
vụ Hội đồng Chính phủ ngày 11 tháng 5 năm 1979 và ngày 17 tháng 1 năm 1980 ,
NGHỊ ĐỊNH:
|
Lê Thanh Nghị (Đã ký) |
VỀ CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP NHẰM KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN SẢN
XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
(Ban hành kèm theo nghị định số 40- CP ngày 7 tháng 2 năm 1980)
Căn cứ vào nghị quyết của Đại
hội lần thứ tư của Đảng và các nghị quyết của Ban chấp hành trung ương Đảng;
Để cụ thể hoá các nghị quyết của Hội đồng Chính phủ và các quyết định, chỉ
thị đã được ban hành nhằm tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa;
Hội đồng Chính phủ quy định dưới đây chính sách cụ thể và biện pháp nhằm
khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu,
I- ĐẦU TƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
Đối với những cơ sở xây dựng mà thời hạn trả nợ có thể dài hơn, thì dùng hình thức hợp tác kinh tế với nước ngoài theo chương II trong Điều lệ đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam.
II- CUNG ỨNG NGUYÊN LIỆU VÀ VẬT TƯ CẦN THIẾT CHO CÁC ĐƠN VỊ SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
- Các xí nghiệp quốc doanh và nông trường quốc doanh được giao chỉ tiêu xuất khẩu;
- Các hợp tác xã trồng cây xuất khẩu theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước và bán sản phẩm cho Nhà nước, trên cơ sở hợp đồng kinh tế hai chiều;
- Các hợp tác xã tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trên cơ sở hợp đồng kinh tế hai chiều; nếu được giao nguyên liệu, phải bán lại toàn bộ sản phẩm cho tổ chức ngoại thương;
- Các hợp tác xã khác chuyên sản xuất hoặc khai thác hàng xuất khẩu.
Trong trường hợp các nguyên liệu, vật tư nhập khẩu không bảo đảm được yêu cầu chung của sản xuất, thì các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu (nói trong điều 7) phải được ưu tiên giải quyết thích đáng.
III- CHÍNH SÁCH LƯƠNG THỰC ĐỐI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ SẢN XUẤT VÀ KHAI THÁC HÀNG XUẤT KHẨU
Trong trường hợp địa phương có khó khăn về lương thực, Uỷ ban nhân dân huyện hoặc tỉnh không bảo đảm hoặc chỉ bảo đảm được một phần lương thực cho hợp tác xã chuyên canh cây xuất khẩu theo quy hoạch và kế hoạch Nhà nước, thì Nhà nước sẽ bổ sung lương thực, nhưng địa phương phải dùng số lương thực này cung ứng cho những hợp tác xã ở vùng chuyên canh cây xuất khẩu, không được dùng số lương thực bổ sung kể trên vào việc khác.
IV- CHO VAY NGOẠI TỆ ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG XUẤT KHẨU
Để tranh thủ kinh doanh thu lãi về ngoại tệ, một số tổ chức kinh doanh được phép vay vốn ngoại tệ để kinh doanh tái xuất, chuyển khẩu.
Nguồn vốn của quỹ ngoại tệ xuất khẩu gồm:
- Vốn tự có của ngân hàng;
- Vốn ngân hàng vay nước ngoài;
- Ngoại tệ của Nhà nước bổ sung cho quỹ (bằng khoản trích 5% kim ngạch xuất khẩu sang thị trường tư bản chủ nghĩa);
- Lãi ngân hàng thu được từ việc cho vay phục vụ xuất khẩu.
1. Đối với hàng xuất khẩu sang thị trường xã hội chủ nghĩa, chưa ghi vào kế hoạch xuất khẩu hoặc sản xuất vượt chỉ tiêu kế hoạch (gọi tắt là hàng xuất khẩu ngoài kế hoạch), các đơn vị sản xuất hoặc tổ chức ngoại thương kinh doanh sản xuất được vay của quỹ ngoại tệ xuất khẩu để nhập các nguyên liệu, vật tư cần thiết cho sản xuất với điều kiện được Bộ Ngoại thương xác nhận các mặt hàng ấy có thể đổi được nguyên liệu, vật tư có giá trị ngoại tệ mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa, trị giá cao hơn so với số ngoại tệ tư bản chủ nghĩa đã vay của quỹ ngoại tệ xuất khẩu.
2. Đối với các mặt hàng được ghi vào kế hoạch xuất khẩu sang thị trường tư bản chủ nghĩa, Nhà nước bảo đảm cung ứng nguyên liệu và vật tư (theo các quy định của chương II); trong trường hợp Nhà nước thiếu ngoại tệ để nhập khẩu, các đơn vị sản xuất hoặc tổ chức ngoại thương kinh doanh sản xuất được vay của quỹ ngoại tệ xuất khẩu để nhập những nguyên liệu, vật tư cần thiết cho sản xuất.
Đối với cả hai trường hợp một và hai kể trên, ngân hàng áp dụng mức lãi thoả đáng.
3. Đối với hàng xuất khẩu ngoài kế hoạch sang thị trường tư bản chủ nghĩa, các đơn vị sản xuất hoặc tổ chức kinh doanh ngoại thương được vay của quỹ ngoại tệ xuất khẩu với lãi suất thị trường để nhập nguyên liệu, vật tư cần thiết cho sản xuất, với điều kiện được Bộ Ngoại thương xác nhận là có hiệu quả kinh tế.
4. Đối với số ngoại tệ thu được do xuất khẩu ngoài kế hoạch, sau khi đã trả vốn và lãi cho ngân hàng, số còn lại được phân phối, sử dụng như sau:
- 30% bổ sung cho quỹ ngoại tệ xuất khẩu,
- 70% dành cho đơn vị sản xuất, kinh doanh sản xuất sử dụng theo hình thức thưởng quyền sử dụng ngoại tệ.
1. Công ty ngoại thương được vay ngoại tệ để kinh doanh chuyển khẩu hoặc lợi dụng thời giá của thị trường để mua vào bán ra, nhưng phải được Bộ ngoại thương xác nhận là có hiệu quả kinh tế.
2. Công ty ngoại thương, Công ty du lịch, Công ty cung ứng tàu biển, Tổng cục Hàng không dân dụng cũng được vay ngoại tệ để nhập những hàng tiêu dùng cao cấp (do Bộ Ngoại thương hướng dẫn) để bán tại các cửa hàng bán lẻ thu ngoại tệ tư bản. Sau khi các Công ty kể trên trả vốn và lãi cho ngân hàng, thì được hưởng từ 15% đến 30% (số lãi ngoại tệ còn lại) để sử dụng vào việc mở rộng kinh doanh và nộp cho Nhà nước số còn lại.
Về số vật tư, hàng hoá bán khuyến khích đối với từng loại sản phẩm xuất khẩu, Bộ Ngoại thương cùng với các Bộ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh có sản phẩm xuất khẩu nghiên cứu và đề nghị Hội đồng Chính phủ quy định trong từng thời kì, căn cứ vào khả năng cung ứng của Nhà nước.
1. Nông sản ngắn ngày: gạo, ngô, lạc nhân, các loại đỗ, vừng, dứa, chuối, thuốc lá, đay, các loại tinh dầu, v.v...;
2. Cây dài ngày: cà phê, chè, hồ tiêu, cam, bưởi, v.v...;
3. Lâm sản: cánh kiến đỏ, cánh kiến trắng, hoa hồi, quế, v.v...;
4. Cây thuốc (có quy định riêng)
Đối với các mặt hàng khác coi là hàng địa phương xuất khẩu, sẽ căn cứ vào mức khuyến khích của Nhà nước mà xác định cho hợp lý.
Giá thu mua nông sản xuất khẩu của các lương thực hợp tác xã, hộ sản xuất và giá bán vật tư cho các hợp tác xã, hộ sản xuất hàng xuất khẩu, do Nhà nước quy định.
Bộ Ngoại thương có trách nhiệm quản lý và sử dụng quỹ hàng hoá này theo đúng chế độ của Nhà nước. Các Tổng công ty ngoại thương căn cứ vào hợp đồng kinh tế hai chiều đã ký kết với cơ sở, sử dụng quỹ này để thực hiện nghĩa vụ của mình, Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện chỉ đạo, kiểm tra các cơ sở sản xuất, thu mua, thực hiện đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết.
VI- CHÍNH SÁCH VÀ GIÁ THU MUA SẢN PHẨM XUẤT KHẨU
Giá thu mua hàng xuất khẩu thuộc hệ thống giá cả chung trong nước, nhưng đối với những mặt hàng xuất khẩu do đòi hỏi tiêu chuẩn và phẩm chất cao hơn, hình dáng đẹp hơn, bao bì và đóng gói kỹ hơn, thì khi định giá, cần có mức chênh lệch thoả đáng để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với các vùng chuyên canh cây xuất khẩu theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước, khi định giá thu mua sản phẩm xuất khẩu, cần tính toán các khoản mà Nhà nước đã đầu tư, các tư liệu sản xuất, lương thực và hàng tiêu dùng do Nhà nước cung ứng (thông qua hợp đồng kinh tế hai chiều) và các khoản tiền thưởng áp dụng theo các điều của chương I, II, III, V và VIII của bản quy định này, đồng thời phải bảo đảm cho người chuyên trồng cây xuất khẩu có thu nhập cao hơn so với người trồng các cây khác ở địa phương, với mức hợp lý.
VII- CHẾ ĐỘ THUẾ VÀ TRỢ CẤP ĐỐI VỚI CÁC SẢN PHẨM XUẤT KHẨU
Xí nghiệp sản xuất giao hàng cho ngành ngoại thương vẫn được tính theo giá bán buôn công nghiệp như đối với cơ sở tiêu thụ trong nước; các tổ chức ngoại thương tạm thanh toán theo giá này, nhưng khi có chứng từ xác nhận là hàng đã xuất khẩu, thì cơ quan tài chính hoàn lại các khoản thu quốc doanh hoặc thuế hàng hoá mà tổ chức ngoại thương đã nộp.
Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn việc thi hành điều khoản này.
Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Ngoại thương, Uỷ ban vật giá Nhà nước có trách nhiệm xác định tỉ giá hợp lý giữa các đồng tiền của nước ngoài với đồng Ngân hàng Việt Nam và sớm trình Hội đồng Chính phủ quyết định để có cơ sở tính doanh lợi, mức trợ cấp đối với hàng xuất khẩu, giá thành của hàng nhập khẩu, giá bán buôn hàng nhập khẩu.
VIII- CHẾ ĐỘ THƯỞNG KHUYẾN KHÍCH SẢN XUẤT VÀ GIAO HÀNG XUẤT KHẨU
Điều 28 – Thưởng khuyến khích sản xuất và giao hàng xuất khẩu gồm hai loại:
- Thưởng bằng tiền Việt Nam nhằm tăng thêm cho 3 quỹ mà xí nghiệp được trích lập theo thông tư số 165-TTg ngày 21 tháng 3 năm 1978 của Thủ tướng Chính phủ;
- Thưởng bằng quyền sử dụng ngoại tệ (theo quyết định số 151-CP ngày 1 tháng 7 năm 1974) để nhập những tư liệu sản xuất hoặc hàng tiêu dùng thật cần thiết.
Mức thưởng bằng tiền Việt Nam được quy định như sau:
a. Đối với sản phẩm chưa qua chế biến hoặc sản phẩm làm bằng nguyên liệu trong nước:
- Trong trường hợp đơn vị sản xuất thực hiện đầy đủ hợp đồng giao hàng theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, được thưởng từ 2% đến 3% giá trị của hợp đồng.
- Trong trường hợp đơn vị thực hiện vượt mức hợp đồng và chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, được thưởng từ 3% đến 5% trị giá hàng giao vượt mức
b. Đối với sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nhập khẩu (kể cả hàng gia công): Các trường hợp đạt kế hoạch, vượt kế hoạch, được thưởng như đối với các trường hợp ghi trong điểm a của điều 30 , sau khi đã trừ trị giá của vật tư nhập khẩu.
c. Khi định mức thưởng cho từng mặt hàng, phải xem xét cả về số lượng và chất lượng của hàng đã giao, tỷ lệ trợ cấp mà Nhà nước phải chi ra đối với mặt hàng đó.
Điều 31 – Mức thưởng quyền sử dụng ngoại tệ được quy định như sau:
a. Trong trường hợp đơn vị thực hiện đầy đủ hợp đồng giao hàng theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, được sử dụng 10% số ngoại tệ thực thu.
b. Trong trường hợp đơn vị thực hiện vượt mức hợp đồng và chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, ngoài việc được thưởng 10% ngoại tệ thực thu trong kế hoạch như quy định ở điểm a, đơn vị còn được sử dụng 50% số ngoại tệ thực thu do vượt kế hoạch. (Đối với các đơn vị sản xuất của các địa phương, sẽ áp dụng theo quy định trong điều 45 sau đây).
b. Nguồn thưởng bằng quyền sử dụng ngoại tệ hàng năm, khi cân đối kế hoạch xuất nhập khẩu, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước dành ra 10% kế hoạch ngoại tệ thực thu về hàng xuất khẩu để thưởng cho các đơn vị sản xuất. Nếu số ngoại tệ được dành ra chưa sử dụng hết trong năm kế hoạch, thì được chuyển sang năm sau.
Số ngoại tệ thực thu nêu trong bản quy định này là số ngoại tệ thực tế thu được sau khi tính trừ khoản ngoại tệ đã chi để nhập khẩu vật tư trực tiếp cho đơn vị làm hàng xuất khẩu.
Điều 33 – Nguyên tắc sử dụng tiền thưởng bằng tiền Việt Nam quy định như sau:
a. Đối với các đơn vị sản xuất quốc doanh và công tư hợp doanh, sử dụng theo chế độ 3 quỹ (quy định trong thông tư số 165-TTg ngày 21 tháng 3 năm 1978 của Thủ tướng Chính phủ).
b. Đối với các hợp tác xã, sử dụng theo yêu cầu sản xuất của hợp tác xã.
Cách thưởng được quy định như sau:
a. Thưởng bằng tiền Việt Nam , tổ chức ngoại thương cấp tiền thưởng cho đơn vị sản xuất sau khi hợp đồng giao hàng được hoàn thành.
B . Thưởng bằng quyền sử dụng ngoại tệ, sau khi thực hiện xong hợp đồng, căn cứ vào tình hình thực hiện hợp đồng về giao hàng xuất khẩu của các đơn vị sản xuất, Bộ Ngoại thương quyết định số ngoại tệ mà các đơn vị được sử dụng và thưởng cho đơn vị sản xuất.
IX- BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HÀNG XUẤT KHẨU
a. Hàng xuất khẩu đặc biệt;
b. Hàng xuất khẩu do Nhà nước giao chỉ tiêu;
c. Hàng xuất khẩu của địa phương.
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.