BỘ TƯ PHÁP |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 12/BC-BTP |
Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2016 |
Từ năm 2011, tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, kinh tế phục hồi chậm hơn dự báo. Khủng hoảng nợ công diễn ra trầm trọng ở nhiều quốc gia. Trong nước, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho những yếu kém nội tại của nền kinh tế bộc lộ nặng nề hơn; thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại lớn và yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh ngày càng cao. Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII đã quyết định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó, tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng; bảo đảm quốc phòng an ninh và ổn định chính trị xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, toàn quân, toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta vừa kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ vững hoà bình, ổn định vừa phấn đấu đạt chỉ tiêu cao nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011-2015. Trên hầu hết các lĩnh vực đều đạt kết quả quan trọng, cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát đã đề ra, nhất là: kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; duy trì được tăng trưởng ở mức hợp lý và đạt tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối, riêng năm 2015 tăng trưởng GDP ước đạt 6,68%, cao nhất trong vòng 8 năm qua; an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; cải cách hành chính đạt những kết quả tích cực; công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được chú trọng; quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Cùng với các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngành Tư pháp đã nỗ lực vượt khó, hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần quan trọng vào các thành tựu chung về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại của đất nước. Thực hiện Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 07/3/2012 về Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2015, Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình hành động của Ngành[1] và tổ chức triển khai toàn diện trên các lĩnh vực công tác, đạt được nhiều kết quả nổi bật so với nhiệm kỳ 2007-2011. Riêng đối với năm 2015, thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2015, Bộ đã chủ động ban hành Chương trình hành động của Ngành[2] và tổ chức triển khai bài bản, lập thành tích thiết thực kỷ niệm các ngày Lễ lớn của đất nước, của Ngành, tập trung giải quyết nhiều “điểm nghẽn” trong công tác tư pháp, nhất là ở địa phương; nhiều nhiệm vụ mới được triển khai thực hiện bước đầu phát huy hiệu quả; vị trí, vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước tiếp tục được khẳng định; vị thế của Ngành từ Trung ương đến địa phương ngày càng được củng cố, tăng cường.
Tổng kết công tác Tư pháp năm 2015, nhiệm kỳ 2011-2015, toàn Ngành nghiêm túc đánh giá một cách toàn diện, chính xác, khách quan những kết quả tích cực đã đạt được; ghi nhận những cách làm mới, hiệu quả cần nhân rộng; làm rõ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện các mặt công tác để đề ra định hướng công tác Tư pháp nhiệm kỳ 2016-2020, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu năm 2016.
TÌNH HÌNH CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2015, NHIỆM KỲ 2011-2015
I. TÌNH HÌNH CÔNG TÁC TRONG CÁC LĨNH VỰC CỤ THỂ
1. Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013
1.1. Kết quả đạt được
Tiếp tục thực hiện Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, Bộ Tư pháp cùng với các Bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, rà soát, xây dựng văn bản triển khai thi hành Hiến pháp và đạt nhiều kết quả tích cực, cụ thể:
- Công tác tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp được tăng cường dưới nhiều hình thức phong phú; gắn với trách nhiệm tích cực, chủ động, tự giác học tập, tìm hiểu Hiến pháp của công dân nhằm tôn vinh, nâng cao nhận thức về Hiến pháp, pháp luật, ý thức trách nhiệm của mỗi người dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bộ, ngành Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ tổ chức thành công cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, với gần 5 triệu bài dự thi[3], trở thành cuộc thi tìm hiểu pháp luật có số lượng người tham gia đông nhất, với thành phần, đối tượng đa dạng nhất từ trước đến nay. Việc công bố kết quả, tổng kết và trao giải cuộc thi đã được tổ chức vào Ngày Pháp luật năm 2015, được Thủ tướng Chính phủ nhận xét là một sự kiện sinh hoạt chính trị - pháp lý rộng lớn và có sức lan tỏa, một phong trào sôi nổi, động viên, khích lệ đồng chí, đồng bào tích cực học tập, tìm hiểu và thực hiện Hiến pháp. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đang chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và các chuyên gia, nhà khoa học tổ chức hoạt động nghiên cứu, bình luận khoa học về Hiến pháp năm 2013 và tổ chức biên soạn thành sách phục vụ nhu cầu tìm hiểu sâu về tinh thần, nội dung Hiến pháp trong quá trình thi hành.
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đối với kết quả rà soát VBQPPL[4], trong năm 2015, các Bộ, cơ quan và địa phương đã tiếp tục cập nhật kết quả rà soát, đồng thời căn cứ thẩm quyền được giao xây dựng chương trình, kế hoạch sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới những văn bản, quy định không còn phù hợp với Hiến pháp. Đối với các quy định của luật, pháp lệnh không còn phù hợp với Hiến pháp, trên cơ sở kết quả rà soát, các Bộ, cơ quan đã phối hợp với Bộ Tư pháp đề xuất đưa vào đề nghị của Chính phủ và đã được Quốc hội thông qua về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 và dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 với tổng số 33 luật, nghị quyết và 03 pháp lệnh. Đối với việc rà soát VBQPPL về quyền con người, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về kết quả rà soát trong năm 2014 đối với VBQPPL liên quan đến quy định về quyền con người tại Hiến pháp năm 2013[5], Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 539/QĐ-BTP 26/3/2015 về Kế hoạch triển khai kết quả rà soát và tích cực tổ chức thực hiện. Đến nay, việc tiếp tục rà soát VBQPPL về quyền con người đang được thực hiện theo đúng Kế hoạch của Bộ Tư pháp.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã tham mưu giúp Chính phủ trình Quốc hội, UBTVQH thông qua và cho ý kiến 26 luật, pháp lệnh, nghị quyết trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp (tại kỳ họp thứ 9 và thứ 10, Quốc hội khóa XIII), nâng tổng số các luật, pháp lệnh, nghị quyết triển khai thi hành Hiến pháp do Chính phủ trình lên tới 48/74 luật, pháp lệnh, nghị quyết. Để bảo đảm tiến độ, chất lượng xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, Bộ Tư pháp đã tham mưu, giúp Chính phủ thực hiện một số giải pháp như: (1) Tổ chức Phiên họp Chuyên đề của Chính phủ về xây dựng pháp luật (tháng 7/2015) để định hướng về quan điểm, mục tiêu, nội dung chủ yếu của một số dự án luật, pháp lệnh; (2) tổ chức cuộc họp Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp để tư vấn, giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc xem xét cho ý kiến đối với 13 dự án luật quan trọng[6], góp phần hoàn thiện bảo đảm chất lượng các luật trước khi trình Quốc hội.
Nhìn lại nhiệm kỳ 2011-2015, với định hướng xuyên suốt là tham mưu giúp Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghiên cứu, đề xuất sửa đổi bổ sung và triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, ngành Tư pháp đã hoàn thành một khối lượng lớn công việc như: (1) tổ chức việc tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992; xây dựng Báo cáo của Chính phủ tổng kết thi hành Hiến pháp năm 2013 và Báo cáo những nội dung cơ bản về sửa đổi Hiến pháp năm 2012; (2) tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Hiến pháp; xây dựng Báo cáo của Chính phủ về kết quả lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp và các Báo cáo chuyên đề; (3) tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với 3 nhiệm vụ chính là tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp; rà soát VBQPPL, lập danh mục đề xuất bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới phù hợp với Hiến pháp và xây dựng các luật, pháp lệnh để triển khai thi hành Hiến pháp... Với việc thực hiện các công việc nêu trên, Ngành Tư pháp đã tích cực góp phần để lần đầu tiên Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tham gia một cách chủ động vào việc nghiên cứu, đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; đồng thời thực hiện tốt vai trò của Chính phủ trong tổ chức thi hành Hiến pháp, qua đó thiết thực góp phần đưa Hiến pháp đi vào cuộc sống.
1.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Một số nhiệm vụ triển khai thi hành Hiến pháp thực hiện còn chậm so với Kế hoạch của Chính phủ, chẳng hạn như việc xây dựng Bình luận về Hiến pháp, việc rà soát các VBQPPL cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp.
- Việc xây dựng, thẩm định luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp còn gặp nhiều khó khăn; một số dự án luật quan trọng triển khai thi hành Hiến pháp chưa được chuẩn bị kỹ phải xin lùi, rút (như Luật về hội lùi trình từ tháng 6 sang tháng 8/2015, Luật báo chí lùi trình từ tháng 7 sang tháng 8/2015, Luật biểu tình lùi sang Chương trình năm 2016).
b) Nguyên nhân
Công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan trong triển khai thi hành Hiến pháp còn bất cập. Bên cạnh đó, cũng có cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản chưa thật sự quyết tâm, quyết liệt, đầu tư nguồn lực cho việc chuẩn bị văn bản.
- Việc triển khai thi hành Hiến pháp được tiến hành khẩn trương với khối lượng công việc đồ sộ, phức tạp, nhất là nhiệm vụ rà soát số lượng lớn VBQPPL do nhiều chủ thể ban hành, đòi hỏi phải đầu tư nhiều thời gian, công sức.
- Số lượng các luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp là rất lớn, trong khi vẫn còn có cách hiểu chưa thực sự thống nhất về một số nội dung của Hiến pháp[7].
2.1. Kết quả đạt được
- Trong năm 2015, Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan đã tích cực tham mưu giúp Chính phủ chủ trì, phối hợp xây dựng, chỉnh lý, trình Quốc hội, UBTVQH thông qua 27 dự án. Trong số đó có 19 luật và 03 nghị quyết do Chính phủ trình nâng tổng số luật, pháp lệnh, nghị quyết do Chính phủ trình được Quốc hội, UBTVQH khóa XIII thông qua trong nhiệm kỳ 2011-2015 lên 99 luật, pháp lệnh, nghị quyết, tăng 04 văn bản so với Chính phủ nhiệm kỳ 2007-2011. Trong đó, có các luật, bộ luật rất quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước và các thiết chế trong hệ thống chính trị, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm quyền con người, quyền công dân như: Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi), Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật tố tụng hành chính (sửa đổi)...
Riêng Bộ Tư pháp đã chủ trì xây dựng, giúp Chính phủ trình Quốc hội thông qua 03 luật, bộ luật và cho ý kiến đối với 02 luật khác, trong đó, lần đầu tiên trong vòng một năm đã tổ chức thành công 02 đợt lấy ý kiến Nhân dân, hoàn thiện trình Quốc hội thông qua dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), Bộ luật hình sự (sửa đổi). Đặc biệt, với việc Quốc hội thông qua Luật ban hành VBQPPL (hợp nhất) với những nội dung mới, quan trọng dựa trên nền tảng là các nguyên tắc hiến định về tổ chức quyền lực nhà nước, về tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không chỉ khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn xây dựng và thi hành pháp luật thời gian qua, mà với vai trò là “luật về làm luật”, Luật thiết lập một mặt bằng thể chế thống nhất cho hệ thống pháp luật quốc gia, củng cố trật tự ban hành pháp luật của các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, đồng thời mở ra không gian rộng lớn cho sự tham gia, phản biện và giám sát của Nhân dân trong quá trình xây dựng và vận hành hệ thống pháp luật của đất nước hướng tới mục tiêu đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả; đồng thời, với việc không được quy định thủ tục hành chính trong các VBQPPL của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Tổng Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được giao trong luật, Luật chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kỳ hội nhập.
- Công tác xây dựng, ban hành VBQPPL thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được thực hiện nghiêm túc hơn, chất lượng được nâng cao hơn, việc điều chỉnh tiến độ trình các văn bản đã từng bước được khắc phục. Trong năm 2015, các Bộ, cơ quan đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 1.003 văn bản (Biểu đồ số 01). Công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết cũng được quan tâm, chỉ đạo sát sao, chất lượng văn bản ngày càng được nâng lên với tổng số 120 văn bản (60 nghị định, 07 quyết định, 50 thông tư, 03 thông tư liên tịch)[8] được ban hành trong năm 2015, tăng 14 văn bản so với năm 2014.
Riêng Bộ Tư pháp đã trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 38 văn bản; hoàn thành 09/09 văn bản quy định chi tiết thi hành luật[9], đạt tỷ lệ 100%. Chất lượng văn bản quy định chi tiết đã được nâng cao, cơ bản không còn tình trạng văn bản quy định chi tiết không đúng với tinh thần và nội dung của luật, pháp lệnh. Nội dung văn bản cơ bản phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, tính khả thi, hợp lý của các quy định được đặc biệt coi trọng.
Biểu đồ số 01: Kết quả trình Chính phủ, TTCP ban hành hoặc ban hành VBQPPL theo thẩm quyền của các Bộ, cơ quan ngang Bộ từ năm 2012-2015
- Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, năm 2015 đã ban hành 3.241 VBQPPL, giảm 10,8% so với năm 2014. Tính cả nhiệm kỳ 2011-2015, các địa phương (cấp tỉnh) đã ban hành 17.021 VBQPPL (Biểu đồ số 2); việc ban hành VBQPPL cơ bản bảo đảm chất lượng, tiến độ và quy trình soạn thảo, đáp ứng kịp thời yêu cầu chỉ đạo, điều hành các mặt kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Biểu đồ số 02: Kết quả ban hành VBQPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh từ năm 2012-2015
Cùng với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương giúp Ban Cán sự Đảng Chính phủ hoàn thành tốt việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
- Công tác thẩm định VBQPPL tiếp tục được chú trọng nâng cao chất lượng và gắn kết chặt chẽ hơn với công tác kiểm tra VBQPPL, kiểm soát thủ tục hành chính. Năm 2015, ước tính toàn Ngành đã thẩm định 9.529 văn bản (tăng 230 văn bản so với năm 2014; giảm 655 văn bản so với năm 2012); trong đó, các Bộ, ngành đã thẩm định 1.335 văn bản, tăng 183 văn bản so với năm 2014 (Bộ Tư pháp thẩm định 320 văn bản, Tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ thẩm định 1.015 văn bản); các địa phương (cấp tỉnh và cấp huyện) đã thẩm định 8.194 văn bản (tăng 47 văn bản so với năm 2014). Nhìn chung, các ý kiến thẩm định dự thảo VBQPPL đã được các cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu, giải trình trước khi hoàn chỉnh và là cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét, ban hành. Tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, toàn ngành Tư pháp đã tổ chức thẩm định 45.073 dự thảo VBQPPL. Nội dung thẩm định đã được các Bộ, ngành, địa phương chú trọng tới tính dự báo của các chính sách, đảm bảo tính khả thi trong việc ban hành văn bản để các quy định của pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, thiết lập được môi trường pháp lý bình đẳng, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp.
- Công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL được chú trọng tăng cường. Ước tính năm 2015 các Bộ, cơ quan, địa phương đã tiếp nhận kiểm tra theo thẩm quyền 42.357 văn bản (giảm 6.775 văn bản so với năm 2014 và giảm 4.012 văn bản so với năm 2011); qua kết quả kiểm tra 10 tháng đầu năm, phát hiện 1.181 văn bản có dấu hiệu trái nội dung, thẩm quyền (giảm 373 văn bản so với 10 tháng đầu năm 2014)[10], đã xử lý xong 442 văn bản. Công tác kiểm tra theo chuyên đề (nhất là trong các lĩnh vực được xã hội quan tâm như đất đai, đầu tư, xây dựng, xử lý vi phạm hành chính...), kiểm tra văn bản qua các nguồn thông tin liên tục được tăng cường, qua đó phát hiện nội dung trái pháp luật của một số văn bản và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tự kiểm tra, xử lý kịp thời, được dư luận, báo chí đồng tình ủng hộ[11]. Công tác tự kiểm tra, kiểm tra theo thẩm quyền tại một số Bộ, ngành (như Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn...) ngày càng được triển khai bài bản; chú trọng đến việc kiểm tra văn bản do Bộ, ngành khác ban hành có liên quan lĩnh vực quản lý của Bộ, ngành mình (Bộ Tài chính).
Tại Bộ Tư pháp, tính đến hết năm 2015, đã kiểm tra 2.391văn bản[12], tăng 617 văn bản so với năm 2011 (1774 văn bản), nhưng giảm 1.496 văn bản so với năm 2014 (3887 văn bản); qua kiểm tra, bước đầu phát hiện 44[13] văn bản sai về nội dung, thẩm quyền (chiếm 1,84% tổng số văn bản được kiểm tra). Qua đó, Bộ đã chỉ đạo tiến hành xem xét, xử lý và đến nay đã có 14 văn bản đã được xử lý xong, các văn bản khác đang trong thời gian xử lý.
- Đối với công tác rà soát VBQPPL, năm 2015, ước tính toàn Ngành rà soát được 76.453 văn bản. Công tác xử lý các văn bản đã hết hiệu lực, trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội được phát hiện thông qua rà soát cũng đã được chú trọng thực hiện, với 12.253 văn bản được xử lý trong năm 2015. Việc rà soát, hệ thống hóa VBQPPL kỳ đầu thống nhất trên cả nước đã được các Bộ, cơ quan, địa phương quan tâm triển khai thực hiện xong[14]. Việc công bố Danh mục VBQPPL hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các Bộ, cơ quan được thực hiện đúng quy định, góp phần giúp cho hệ thống pháp luật được minh bạch, dễ tiếp cận, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước trong áp dụng.
- Được triển khai thực hiện từ năm 2012, đến nay, công tác hợp nhất VBQPPL, pháp điển hệ thống QPPL đang dần thể hiện được vai trò quan trọng trong việc giúp cho hệ thống pháp luật dễ tiếp cận, thuận lợi trong áp dụng. Đặc biệt, việc thực hiện Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL được các cơ quan nghiêm túc triển khai theo quy định (trong năm 2015, riêng Bộ Tư pháp đã thực hiện hợp nhất và ký xác thực đối với 07 văn bản). Đối với công tác pháp điển, về cơ bản các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã đầy đủ; các Bộ, cơ quan đã quan tâm bố trí nhân sự kiêm nhiệm để triển khai công tác này, nhờ đó việc tổ chức triển khai công tác này cơ bản thuận lợi. Tính đến 31/12/2015, Bộ Tư pháp đã tiến hành thẩm định đối với 16 đề mục của Bộ Pháp điển[15]. Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các cuộc sinh hoạt chuyên môn và hướng dẫn các Bộ, ngành triển khai pháp điển, hợp nhất VBQPPL, giúp cho các Bộ, ngành thực hiện thống nhất, đồng bộ các công tác này.
Như vậy, có thể thấy rằng trong nhiệm kỳ 2011-2015, với những chuyển biến tích cực, thể hiện tư duy lập pháp mới trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, việc chuyển giao công tác theo dõi, đôn đốc việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh từ Văn phòng Chính phủ sang Bộ Tư pháp (từ giữa năm 2013) và việc triển khai nền nếp công tác thẩm định, kiểm tra, xử lý, rà soát VBQPPL cùng công tác hợp nhất, pháp điển VBQPPL xây dựng pháp luật đã giúp cho hệ thống pháp luật Việt Nam được định hình một cách rõ nét trên tất cả các lĩnh vực, làm nền tảng cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, từng bước chuyển hướng trọng tâm chiến lược từ xây dựng sang tổ chức thi hành pháp luật trong thời gian tới, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Tình trạng xin lùi, xin rút các dự án luật khỏi Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội chưa được khắc phục triệt để.
- Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh còn phổ biến. Đến cuối năm 2015 còn nợ 33 văn bản (tăng 15 văn bản so với năm 2014); số lượng văn bản bảo đảm có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của luật, pháp lệnh rất ít, gây ảnh hưởng không tốt đến công tác tổ chức triển khai thi hành luật, pháp lệnh, đến quyền, lợi ích của các cơ quan, tổ chức cá nhân. Số lượng VBQPPL do các Bộ, ngành, HĐND, UBND ban hành còn quá nhiều.
- Chất lượng thẩm định VBQPPL tuy đã được cải thiện một bước, nhưng vẫn còn để lọt nội dung thiếu tính khả thi, chưa hợp lý. Việc kiểm tra VBQPPL ở một số Bộ, cơ quan, địa phương vẫn còn chậm và chưa thường xuyên, nhiều văn bản đã ban hành nhưng chưa được kiểm tra, phát hiện kịp thời sai sót. Việc xử lý VBQPPL có dấu hiệu trái pháp luật còn chậm hoặc chưa đạt yêu cầu, có trường hợp gây bức xúc trong dư luận xã hội.
b) Nguyên nhân
- Lãnh đạo một số Bộ, cơ quan, địa phương chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo sát sao công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, xử lý VBQPPL. Công tác phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình xây dựng, thẩm định, kiểm tra, xử lý VBQPPL chưa thực sự chặt chẽ, kịp thời.
- Trong nhiệm kỳ 2011-2015, nhất là từ khi triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, số lượng các luật, pháp lệnh do các Bộ, cơ quan phải chủ trì xây dựng là rất lớn, đồng thời, số lượng văn bản quy định chi tiết phải xây dựng, ban hành nhiều. Chẳng hạn, riêng năm 2015, cần ban hành tới 230 văn bản (tăng 24 văn bản so với năm 2014). Nội dung của nhiều dự án, dự thảo văn bản quy định những vấn đề mới, phức tạp([16]), trong khi đó thời gian để xây dựng, ban hành văn bản là tương đối ngắn và việc tuân thủ quy trình xây dựng, thẩm định VBQPPL còn chưa nghiêm, nhất là ở các địa phương.
- Đội ngũ công chức làm công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát VBQPPL vẫn còn ít, tính chuyên nghiệp còn chưa cao. Việc thành lập, củng cố và kiện toàn các tổ chức pháp chế ở một số Bộ, cơ quan nhất là tại các địa phương còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của Nghị định số 55/2011/NĐ-CP.
3. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính
3.1. Kết quả đạt được
- Năm 2015, các Bộ, cơ quan đã hoàn thành việc đơn giản hóa thêm 98 thủ tục hành chính (TTHC), nâng tổng số TTHC đã hoàn thành thực thi trong nhiệm kỳ 2011-2015 lên 4.481/4.723 TTHC đã được Chính phủ phê duyệt tại 25 Nghị quyết chuyên đề (đạt tỷ lệ 94,9%); ước tính đã đánh giá tác động đối với 2.087 TTHC, (tăng 61 TTHC so với năm 2014); thẩm định 1.616 TTHC (giảm 1.032 TTHC so với năm 2014); tham gia ý kiến đối với 1.850 TTHC; ban hành 2.139 quyết định công bố TTHC để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC (tăng gấp đôi so với năm 2014). Toàn Ngành cũng đã tiếp nhận và xử lý 2.098/2.436 phản ánh kiến nghị về hành vi hành chính, quy định hành chính (đạt 86%). Riêng Bộ Tư pháp, đã tham gia ý kiến đối với 796 TTHC, thẩm định 528 TTHC. Bộ đã tổ chức kiểm tra tại 03 Bộ, cơ quan và 13 tỉnh để nắm bắt những khó khăn, kịp thời hướng dẫn, đề xuất giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác kiểm soát TTHC.
- Các Bộ, cơ quan, địa phương đã tích cực triển khai Kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính trọng tâm năm 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 08/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Có 7/9 Bộ được giao rà soát, đơn giản hóa 13 nhóm thủ tục hành chính trọng tâm đã hoàn thành hệ thống hóa thủ tục hành chính, quy định liên quan; 2/9 Bộ khác đã hoàn thành nghiên cứu, đề xuất phương án đơn giản hóa trình Thủ tướng Chính phủ[17]; 19/24 Bộ, cơ quan đã ban hành quyết định công bố bộ thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý[18]; nhiều địa phương cũng đã hoàn thành công bố bộ TTHC đặc thù, còn 17 địa phương đang thực hiện công bố[19].
- Việc liên thông các TTHC được chú trọng nghiên cứu, triển khai. Bộ Tư pháp đã cùng với Bộ Công an, Bộ Y tế ban hành Thông tư liên tịch số 05/2015/TTLT-BTP-BCA-BYT ngày 15/5/2015 hướng dẫn liên thông thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi. Bộ cũng đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ “Đề án liên thông thủ tục công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thuế”. Thực hiện chủ trương đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp đã phê duyệt theo thẩm quyền Đề án Thiết lập hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết TTHC tại các cấp chính quyền; hoàn thiện Hệ thống quản lý, đánh giá công tác kiểm soát TTHC và Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC.
Như vậy, mặc dù mới nhận chuyển giao toàn bộ chức năng, nhiệm vụ và nhân lực từ Văn phòng Chính phủ, Văn phòng UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2012, song công tác kiểm soát TTHC được ngành Tư pháp triển khai cơ bản có hiệu quả, ngày càng có sự gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng, thẩm định VBQPPL và nhận được sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và toàn xã hội. Các kết quả đạt được trong công tác kiểm soát TTHC đã góp phần tạo thuận lợi, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp, nhất là các lĩnh vực đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây dựng, thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt, với việc tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 08/6/2013 phê duyệt Đề án tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 – 2020 đã tạo tiền đề quan trọng tạo nên bước đổi mới căn bản về tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước về dân cư theo hướng đơn giản hóa TTHC, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, góp phần phát triển Chính phủ điện tử.
3.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Các TTHC không hợp lý, không hợp pháp gây cản trở đến hoạt động sản xuất kinh doanh và quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp vẫn còn nhiều nhưng chưa được phát hiện, cắt giảm kịp thời.
- Một số nhiệm vụ được giao tại Kế hoạch đơn giản hóa TTHC trọng tâm năm 2015 chậm tiến độ, chưa bảo đảm chất lượng.
- Việc công bố công khai, niêm yết TTHC chưa được một số Bộ, ngành, địa phương thực hiện kịp thời, đầy đủ gây khó khăn, vướng mắc cho không chỉ cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện TTHC mà còn “làm khó” cho chính các cơ quan hành chính cấp cơ sở (nhất là các đơn vị cấp huyện, xã) trong việc giải quyết và niêm yết TTHC.
b) Nguyên nhân
- Nhận thức của Lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị về công tác cải cách TTHC, kiểm soát TTHC còn hạn chế, chưa quan tâm, chỉ đạo sâu sát các nhiệm vụ có liên quan. Trách nhiệm phối hợp của một số cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ cải cách TTHC chưa chặt chẽ; một số Bộ, ngành chưa có sự phối hợp tích cực với Bộ Tư pháp trong triển khai đơn giản hóa TTHC các lĩnh vực thuộc phạm vi của Bộ, ngành mình.
- Trong quá trình triển khai thực hiện, một số tổ chức Pháp chế, Sở Tư pháp còn chưa chủ động, quyết liệt trong tham mưu triển khai và tổ chức thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ cải cách TTHC, kiểm soát TTHC.
- Đội ngũ những người làm công tác kiểm soát TTHC còn mỏng, chưa được kiện toàn đầy đủ. Một số cán bộ công chức còn có biểu hiện nhũng nhiễu; hiện tượng yêu cầu thêm các giấy tờ ngoài thành phần hồ sơ theo quy định còn tồn tại trong quá trình giải quyết TTHC.
4. Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật
4.1. Kết quả đạt được
a) Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính
- Thực hiện Nghị quyết số 77/2014/QH13, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhiều địa phương đã tiến hành tạm thời giao trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội để quản lý, cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý cho người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, qua đó khắc phục, tháo gỡ một phần vướng mắc trong việc đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bên cạnh đó, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an ban hành Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy, góp phần tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc lớn nhất trong quá trình triển khai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Việc kiện toàn tổ chức, biên chế làm công tác xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) bước đầu được các Bộ, cơ quan, địa phương quan tâm thực hiện. Đa số các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã giao cho Vụ Pháp chế là đơn vị đầu mối triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý XLVPHC, bố trí từ 01 đến 03 cán bộ thực hiện công tác này, một số Bộ ngành: Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai tốt việc tổ chức bộ máy, bố trí nhân sự chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ quản lý XLVPHC. Tại địa phương, tính đến nay đã có có 44/63 tỉnh, thành phố thành lập được Phòng chuyên môn trực thuộc Sở Tư pháp (Phòng QLXLVPHC&TDTHPL) để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định[20] (tăng 41 địa phương so với năm 2014).
- Công tác tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra về XLVPHC tiếp tục được chú trọng thực hiện. Bộ Tư pháp đã tổ chức 17 hội nghị, hội thảo tập huấn về công tác thi hành pháp luật về XLVPHC; kiểm tra công tác tại 04 Bộ, và 3 địa phương[21]. Một số Bộ, ngành, địa phương: Bộ Y tế, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Nghệ An, Sóc Trăng, Lâm Đồng... đã chủ động tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn, kiểm tra công tác áp dụng pháp luật về XLVPHC, giúp cho công tác này được thực hiện nghiêm minh, chặt chẽ, kịp thời hơn.
- Công tác thống kê về XLVPHC bước đầu đi vào nề nếp. Theo báo cáo của 15/20[22] Bộ, cơ quan ngang Bộ và 63/63 tỉnh, thành phố, trong năm 2015 có 9.445.474 vụ vi phạm hành chính bị phát hiện, đã ra 4.142.875 quyết định xử phạt với với tổng số tiền hơn 7.338 tỷ đồng. Về việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, năm 2015 có 27.465 đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; trong đó có 14.428 đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 13.036 đối tượng đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do TAND quyết định. Qua kiểm tra, theo dõi cho thấy việc thực hiện xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cơ bản được thực hiện theo quy định của pháp luật, chưa để xảy ra sai sót, bức xúc lớn.
b) Công tác theo dõi thi hành pháp luật
Năm 2015, Bộ Tư pháp đã cùng với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức sơ kết 03 năm thi hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi tình hình thi hành pháp luật. Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm của Bộ Tư pháp năm 2015; tổ chức 04 Đoàn Kiểm tra liên ngành, tiến hành kiểm tra về tình hình thi hành pháp luật về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả tại địa phương[23] và một số Đoàn Kiểm tra công tác theo dõi thi hành pháp luật (TDTHPL) tại Bộ, ngành, địa phương[24]. Qua theo dõi cho thấy, hầu hết các Bộ, cơ quan, địa phương đều ban hành Kế hoạch và tổ chức các hoạt động TDTHPL trong phạm vi quản lý nhà nước được giao, trong đó có các lĩnh vực trọng tâm đã được xác định theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Ngoài ra, một số địa phương (như Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Lâm Đồng, TP.Hồ Chí Minh, Long An, Hậu Giang...) đã tổ chức TDTHPL trong những lĩnh vực nóng, có nhiều bức xúc ở địa phương như đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng.
Có thể thấy rằng, mặc dù đều là những nhiệm vụ mới, còn gặp nhiều khó khăn song trong nhiệm kỳ 2011-2015, Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan, địa phương đã có nhiều nỗ lực triển khai công tác quản lý nhà nước về XLVPHC theo Luật XLVPHC, Nghị quyết số 24/2012/QH13 về việc thi hành Luật, cũng như công tác theo dõi thi hành pháp luật theo Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, bước đầu đạt được kết quả tích cực, một mặt góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, mặt khác bảo vệ được tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
4.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung một số VBQPPL phục vụ cho việc triển khai Luật XLVPHC, nhất là các văn bản liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, trong đó có quy định về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn chậm; tình trạng chồng chéo, chưa phù hợp trong một số nghị định về xử phạt vi phạm hành chính chưa được giải quyết kịp thời.
- Việc kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế, triển khai công tác quản lý về XLVPHC ở địa phương còn chậm, lúng túng. Công tác thống kê, theo dõi tình hình XLVPHC chủ yếu thực hiện theo phương thức thủ công. Một số Bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đến công tác XLVPHC; một số Bộ chưa có báo cáo thống kê số liệu.
- Hiệu quả triển khai công tác TDTHPL ở một số Bộ, cơ quan, địa phương chưa cao, chưa phản ánh đúng những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật tại địa phương; chưa có nhiều đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
b) Nguyên nhân
- Quản lý nhà nước về XLVPHC là nhiệm vụ mới, phức tạp, phạm vi rộng trong khi cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm cho việc triển khai công tác này còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về biên chế.
- Công tác phối hợp giữa các Bộ, cơ quan và địa phương trong công tác quản lý nhà nước về XLVPHC, nhất là trong xử lý những vướng mắc phát sinh còn chưa thực sự nhịp nhàng, còn nhiều bất cập.
- Một số lãnh đạo Bộ, cơ quan, địa phương chưa coi trọng vai trò công tác TDTHPL trong chỉ đạo, điều hành kinh tế - xã hội. Thể chế về công tác TDTHPL chậm được hoàn thiện; phối hợp trong TDTHPL chưa chặt chẽ. Số lượng, khối lượng nhiệm vụ trên các mặt công tác TDTHPL lớn, rộng trên nhiều lĩnh vực, trong khi đó nguồn lực về bộ máy, cán bộ, kinh phí để triển khai còn hạn chế.
5. Công tác thi hành án dân sự
5.1. Kết quả đạt được
Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, ban hành Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản thu, nộp ngân sách nhà nước và ban hành Thông tư số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung Thông tư số 02/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự (THADS). Việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan THADS tiếp tục được quan tâm; kỷ cương, kỷ luật hành chính được siết chặt và ngày càng đi vào nền nếp; công tác biệt phái, điều động, luân chuyển công chức được quan tâm thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Việc giải quyết các vụ án lớn, phức tạp, các vụ án liên quan đến tín dụng, ngân hàng được chú trọng. Công tác phối hợp liên ngành được đặc biệt quan tâm, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành các Quy chế phối hợp trong công tác thi hành án dân sự với Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao...; trên cơ sở đó, nhiều địa phương đã ban hành Quy chế phối hợp liên ngành để triển khai thực hiện tại địa phương. Nhờ đó, công tác THADS năm 2015 tiếp tục đạt kết quả tốt, cụ thể:
- Về việc, tổng số thụ lý là 791.412 việc, tăng 12.114 việc (1,55%) so với năm 2014. Kết quả xác minh, phân loại có: 599.436 việc có điều kiện giải quyết, chiếm tỷ lệ 75,74% (giảm 861 việc và giảm 1,29% về tỷ lệ so với năm 2014). Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 533.985 việc, đạt tỷ lệ 89,08%, vượt 1,08% so với chỉ tiêu được Quốc hội giao (tăng 2.890 việc và tăng 0,61% về tỷ lệ so với năm 2014). Số việc chuyển kỳ sau là 257.427 việc, tăng 9.224 việc so với số việc còn phải giải quyết của năm 2014 chuyển sang năm 2015 và tăng 10.324 việc còn phải giải quyết của năm 2010 chuyển sang năm 2011.
- Về tiền, tổng số tiền thụ lý là 125.956 tỷ 77 triệu 210 nghìn đồng, tăng cao so với năm 2014 (tăng 30.847 tỷ 421 triệu 820 nghìn đồng, tương đương tăng 32,43%). Kết quả xác minh, phân loại có: 56.342 tỷ 815 triệu 341 nghìn đồng có điều kiện giải quyết, chiếm tỷ lệ 44,73% (tăng 5.534 tỷ 836 triệu 938 nghìn đồng nhưng giảm 8,69% về tỷ lệ so với năm 2014). Trong số có điều kiện, đã giải quyết xong 42.819 tỷ 191 triệu 766 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 76%, còn thiếu 1% so với chỉ tiêu được Quốc hội giao (tăng 3.837 tỷ 686 triệu 324 nghìn đồng nhưng giảm 0,72% về tỷ lệ so với năm 2014). Số tiền chuyển kỳ sau là 83.136 tỷ 885 triệu 439 nghìn đồng, tăng 27.009 tỷ 735 triệu 491 nghìn đồng so với số tiền còn phải giải quyết của năm 2014 chuyển sang năm 2015 và tăng 63.176 tỷ 981 triệu 242 nghìn đồng so với số tiền còn phải giải quyết của năm 2010 chuyển sang năm 2011.
Một số địa phương có kết quả thi hành án đạt tỷ lệ khá cao, góp phần quan trọng vào kết quả chung của toàn quốc[25]; có 21 địa phương[26] hoàn thành cả 03 chỉ tiêu của Bộ Tư pháp giao (chỉ tiêu thi hành án xong về việc, chỉ tiêu thi hành án xong về tiền và chỉ tiêu giảm án chuyển kỳ sau).
- Công tác đôn đốc thi hành án hành chính đã có nhiều chuyển biến trong nhiệm kỳ 2011-2015, nhất là sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 25/5/2012, hầu hết các vụ việc thi hành án hành chính đều được các cơ quan THADS kịp thời có văn bản đôn đốc (năm 2013 đạt tỷ lệ 99,43%, năm 2014: 99,33%, năm 2015: 100%). Triển khai Luật tố tụng hành chính, Nghị quyết số 56/2010/QH12 của Quốc hội và Chỉ thị số 17/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ bổ sung nguồn nhân lực cho các cơ quan THADS địa phương (bổ sung 01 biên chế chuyên trách công tác này).
- Thực hiện Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội, Bộ Tư pháp phối hợp một số Bộ, ngành liên quan, Tỉnh ủy, HĐND, UBND một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngoài thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, cả nước có 53 Văn phòng Thừa phát lại với 134 Thừa phát lại, tổng doanh thu là gần 136 tỷ đồng. Kết thúc thí điểm, Bộ Tư pháp đã tổ chức tổng kết, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định thừa phát lại, trong đó ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và chính thức cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước từ ngày 01/01/2016.
Biểu đồ số 03: Kết quả thi hành án dân sự nhiệm kỳ 2011 - 2015
Nhìn vào Biểu đồ số 03 cho thấy, kết quả THADS năm sau luôn đạt cao hơn năm trước. Có thể khẳng định, nhiệm kỳ 2011-2015 là giai đoạn đi vào ổn định và phát triển bền vững của công tác THADS trên tất cả các lĩnh vực công tác, từ việc hoàn thiện thể chế cho đến tổ chức bộ máy được thành lập tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương tới địa phương; công tác cán bộ được coi trọng, tổ chức, đội ngũ cán bộ được củng cố, kiện toàn cơ bản cả về số lượng và chất lượng, nhất là cán bộ quản lý và chức danh pháp lý, những địa phương yếu kém đã được giải quyết dứt điểm; công tác phối hợp được quan tâm, ngày càng hiệu quả; kỷ cương kỷ luật, cơ sở vật chất được tăng cường đáng kể; kết quả thi hành án dân sự năm sau cao hơn năm trước, ngày càng thực chất và bền vững, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội giao. Những kết quả, đóng góp của các cơ quan THADS đã góp phần quan trọng, tích cực vào việc đảm bảo an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước và từng địa phương, được Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận. Việc tổ chức thí điểm thành công chế định Thừa phát lại, được Quốc hội cho phép chính thức thực hiện, dự báo sẽ góp phần quan trọng cho công tác xã hội hóa các nghề tư pháp, làm sáng tỏ và đầy đủ hơn ý nghĩa của những nỗ lực cải cách trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp của đất nước ta.
5.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Mặc dù kết quả THADS năm 2015 vượt chỉ tiêu Quốc hội giao về việc (vượt 1,08%) nhưng vẫn chưa hoàn thành chỉ tiêu Quốc hội giao về tiền (còn thiếu 01%); số việc, tiền phải thi hành chuyển kỳ sau còn nhiều, nhất là về tiền (chiếm 32,53% về việc và 66 % về tiền so với tổng số thụ lý); một số đơn vị có biểu hiện chạy theo thành tích trong thời điểm cuối năm, số việc hoãn, trả đơn, ủy thác thi hành án chiếm số lượng lớn với gần 51.000 việc và trên 20.751 tỷ đồng (chiếm 6,4% về việc và 16,5% về tiền so với tổng số thụ lý).
- Công tác luân chuyển cán bộ, công chức trong các cơ quan THADS vẫn chưa được như mong muốn. Kỷ cương, kỷ luật tại một số đơn vị còn chưa nghiêm; số lượng công chức vi phạm bị xử lý kỷ luật còn nhiều như Gia Lai, An Giang...; vẫn còn có nơi để xảy ra việc nhũng nhiễu, gây phiền hà cho các bên đương sự, gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình ảnh cán bộ, công chức cũng như hình ảnh của các cơ quan THADS[27].
- Cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, hiện vẫn còn 534 đơn vị chưa có Kho vật chứng; có nơi vẫn còn phải đi thuê hoặc chưa có trụ sở, nhất là những Chi cục ở vùng sâu, vùng xa, Chi cục mới được thành lập; công tác quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản; thực hiện chế độ kế toán nghiệp vụ tại một số nơi còn nhiều tồn tại, hạn chế, thực hiện chưa nghiêm.
- Công tác tuyên truyền về Thừa phát lại ở cả Trung ương và địa phương còn chưa sâu rộng nên hiểu biết của người dân và xã hội về Thừa phát lại còn hạn chế; thể chế về Thừa phát lại chưa hoàn thiện; sự phối hợp của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương, ngay cả của các cơ quan THADS đối với Văn phòng Thừa phát lại còn chưa chặt chẽ, có lúc có việc chưa hiệu quả.
b) Nguyên nhân
- Đội ngũ cán bộ còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; còn một bộ phận công chức chưa thật sự chủ động, tích cực trong công việc, tư duy theo nếp cũ, chưa tận tuỵ phục vụ Nhân dân, cá biệt có trường hợp còn có hành vi tiêu cực, tham nhũng, gây phiền hà cho các bên đương sự, thậm chí là vi phạm pháp luật.
- Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra chưa thực sự đạt hiệu quả như mong muốn, vẫn còn có những cuộc kiểm tra kết luận mang tính chung chung, không chỉ rõ trách nhiệm phải xử lý kỷ luật đối với sai phạm; cơ chế hậu kiểm, phúc tra việc thực hiện Kết luận kiểm tra của các đơn vị được kiểm tra vẫn còn là một khâu yếu, chưa được quan tâm thực hiện.
- Công tác phối hợp với các đơn vị có liên quan (Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an...), phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác THADS có lúc có nơi còn thiếu chủ động, hiệu quả chưa cao mặc dù đã có đầy đủ các văn bản hướng dẫn, quy chế phối hợp liên ngành.
- Số việc và tiền thụ lý ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm trước (năm 2015 tăng 1,55% về việc và 32,43% về tiền so với năm 2014 và cao nhất từ trước đến nay với gần 800.000 việc, số tiền xấp xỉ 126.000 tỷ đồng) trong khi nền kinh tế còn khó khăn, thị trường bất động sản chưa thực sự khởi sắc trở lại nên nhiều tài sản, nhất là bất động sản đã kê biên, thẩm định giá nhưng rất khó bán, nhiều vụ việc phải định giá lại nhiều lần vẫn không có người mua.
- Vẫn còn lượng án tương đối lớn về giá trị thuộc diện chưa có điều kiện thi hành, tồn đọng trong nhiều năm không thi hành được, phải tiến hành đôn đốc, xác minh theo định kỳ, mất nhiều thời gian, công sức. Đặc biệt, những năm gần đây có nhiều vụ án hình sự liên quan đến tham nhũng, thu hồi tài sản cho Nhà nước, giá trị phải thi hành lớn nhưng khả năng thi hành thấp do tài sản của đương sự có giá trị rất nhỏ, không đủ bảo đảm thi hành án như vụ Vinashin, vụ Vinalines, vụ Huỳnh Thị Huyền Như.
6. Quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật, hoà giải ở cơ sở
6.1. Kết quả đạt được
- Năm 2015, việc thực hiện Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, các Chương trình, Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) và các văn bản hướng dẫn thi hành tiếp tục được quan tâm, chú trọng, bám sát nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của đất nước và từng địa phương; từng bước gắn kết chặt chẽ hơn với công tác xây dựng, thực thi pháp luật, trong đó đã chú trọng phổ biến mục tiêu, quan điểm, chính sách mới trong quá trình xây dựng luật gắn với những vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận để tạo đồng thuận trong xã hội. Ngày Pháp luật năm 2015 được các Bộ, ngành, địa phương tổ chức đồng bộ, rộng khắp, với nhiều hình thức phong phú như: Tư vấn pháp luật lưu động, phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp tại địa bàn vùng sâu, vùng xa (Sơn La, Nghệ An, Hà Giang...); thu hút sự vào cuộc sâu của các cơ quan thông tấn báo chí (như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam...). Theo ước tính, năm 2015 các Bộ, ngành, địa phương tổ chức 1.597.892 cuộc tuyên truyền pháp luật (TTPL), tăng gần 54% so với năm 2014) cho 80.984.919 lượt người (tăng 1.387.706 lượt so với năm 2014) – Biểu đồ số 04; phát hành miễn phí 46.638.537 tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật; tổ chức 15.585 cuộc thi tìm hiểu pháp luật, qua đó góp phần tác động tích cực đến ý thức pháp luật của người dân.
Biểu đồ số 04: Số cuộc tuyên truyền pháp luật và Số lượt người được tuyên truyền pháp luật từ năm 2012-2015
- Tiếp tục triển khai Luật hòa giải ở cơ sở, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các địa phương tổ chức các lớp tập huấn kiến thức pháp luật và nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên. Theo thống kê, hiện cả nước có 134.873 Tổ Hòa giải (tăng 23.358 Tổ so với đầu nhiệm kỳ - năm 2011); 762.794 Hòa giải viên (tăng 203.362 so với đầu nhiệm kỳ - năm 2011); trong năm 2015 cả nước tiếp nhận 183.658 vụ việc hòa giải, số vụ việc hoà giải thành ước đạt 143.665 vụ việc - đạt tỷ lệ hòa giải thành 78,22% (tăng 1,22% so với năm 2014 và năm 2011) - Biểu đồ số 05. Một số địa phương có tỷ lệ hoà giải thành cao (như Hà Nam - 96%, Hoà Bình - 93%, Bình Định - 91,8%).
Biểu đồ số 05: Số vụ việc tiếp nhận hoà giải và Số vụ việc hoà giải thành nhiệm kỳ 2011-2015
- Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã cùng với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Kế hoạch liên tịch số 856/KH-BTP-BVHTTDL-BTTUBTWMTTQVN ngày 23/3/2015 về việc phối hợp khảo sát, đánh giá tình hình xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước; đồng thời hướng dẫn Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, đánh giá tình hình xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước, làm rõ hơn vị trí, vai trò của hương ước, quy ước trong quản lý xã hội. Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với các địa phương (thành phố Hồ Chí Minh, Cà Mau, Quảng Bình, Thái Bình và Điện Biên) tiếp tục triển khai làm thử việc đánh giá, công nhận địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg, từ đó đề xuất các giải pháp lồng ghép tiêu chí tiếp cận pháp luật vào Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới nhiệm kỳ 2016-2020, gắn kết các chủ trương, chính sách pháp luật về xây dựng nông thôn mới, xây dựng địa phương đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trong thời gian tới.
Có thể thấy rằng, nhiệm kỳ 2011-2015, công tác quản lý nhà nước về PBGDPL và hòa giải ở cơ sở ngày càng được chú trọng và tăng cường. Thể chế các lĩnh vực này đã được hoàn thiện với việc Quốc hội thông qua Luật phổ biến, giáo dục pháp luật và Luật hòa giải ở cơ sở và gần 10 văn bản quy định chi tiết thi hành[28] đã tạo lập khuôn khổ pháp lý cho bước chuyển mới, căn bản trong các công tác này. Điều kiện bảo đảm thực hiện công tác PBGDPL và Hòa giải ở cơ sở ngày càng được quan tâm hơn. Đặc biệt, kể từ năm 2013, Ngày Pháp luật Việt Nam đã được triển khai đồng bộ trên cả nước; thực sự trở thành sự kiện chính trị, pháp lý, góp phần nâng cao ý thức của cán bộ, Nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Công tác hoà giải ở cơ sở, nhất là từ khi có Luật hoà giải ở cơ sở, đã góp phần quan trọng trong gắn kết cộng đồng dân cư, bảo đảm ổn định trật tự an toàn cơ sở.
6.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Việc xây dựng, ban hành Kế hoạch PBGDPL; Kế hoạch hoạt động của Hội đồng, Kế hoạch triển khai Chương trình, Đề án về PBGDPL còn chậm[29]; chương trình, đề án về PBGDPL nhiều, mục tiêu lớn nhưng thiếu nguồn lực bảo đảm, nhất là tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách; tình trạng trùng lắp, chồng chéo vẫn còn; chính sách xã hội hóa PBGDPL chưa được triển khai rộng rãi; chưa thu hút được nhiều nguồn lực tham gia hỗ trợ, tài trợ[30]; công tác PBGDPL cho các đối tượng đặc thù chưa được quan tâm đúng mức.
- Nội dung PBGDPL ở một số Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa sát với nhu cầu, chưa gắn với trách nhiệm học tập tìm hiểu pháp luật và hoạt động tập huấn nghiệp vụ của cán bộ, công chức. Một số hình thức PBGDPL chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm của đối tượng đặc thù và nội dung cần phổ biến. Việc tuyên truyền, giải thích một số chính sách, quy định mới chưa được quan tâm đúng mức, thiếu kịp thời (như chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động quy định tại Điều 60 Luật bảo hiểm xã hội).
- Cách thức triển khai công tác PBGDPL ở một số Bộ, cơ quan, địa phương chậm được đổi mới, thiếu linh hoạt, ít sáng tạo; chưa khắc phục được tính hình thức trong hoạt động PBGDPL; hiệu quả chưa cao nên chưa tạo được sự chuyển biến rõ rệt trong ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, chưa gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng với thi hành và bảo vệ pháp luật; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL chưa được chú trọng đúng mức. Công tác phối hợp trong công tác PBGDPL hiệu quả chưa cao; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của Hội đồng phối hợp PBGDPL, các Ban Chỉ đạo, Ban Điều hành Đề án vào các hoạt động chung.
- Việc triển khai Luật hoà giải ở cơ sở chưa đồng đều, một số địa phương có tỷ lệ hòa giải thành chưa cao như Bà Rịa - Vũng Tàu (61,8%), Bình Phước (61,9%), Vĩnh Phúc (62%)...; chất lượng nguồn nhân lực làm công tác hòa giải ở cơ sở còn hạn chế.
b) Nguyên nhân
- Nguồn nhân lực làm công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở còn nhiều hạn chế, thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, một số chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ và đòi hỏi của xã hội. Nhiệm vụ chính trị của ngành Tư pháp ngày càng nặng nề, yêu cầu cao, phức tạp.
- Công tác phối hợp giữa Bộ, cơ quan trung ương với chính quyền các cấp chưa chặt chẽ, thiếu kịp thời; hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL ở một số địa phương còn chưa hiệu quả. Công tác quản lý nhà nước về PBGDPL chưa được chú trọng đúng mức, chậm đổi mới.
- Nguồn kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở ở một số địa phương còn khó khăn, nhất là tại các tỉnh thuộc diện ngân sách Trung ương phải hỗ trợ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL còn nhiều hạn chế.
7.1. Kết quả đạt được
a) Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
- Về công tác hộ tịch:
Triển khai thi hành Luật hộ tịch, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch; ban hành Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP; phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thành các Thông tư quy định chi tiết để đảm bảo có hiệu lực cùng thời điểm với Luật (vào ngày 01/01/2016). Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đối với Đề án cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2173/QĐ-BTP ngày 11/12/2015 phê duyệt Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; tích cực chuẩn bị để triển khai việc đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử bảo đảm thiết lập cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; tiếp tục thực hiện Tuyên bố cấp Bộ trưởng khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về đăng ký và thống kê hộ tịch và Khung hành động khu vực về đăng ký và thống kê hộ tịch giai đoạn 2015-2024. Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với các địa phương và Bộ Ngoại giao tổ chức rà soát để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch theo yêu cầu của Luật. Từ ngày 01/01/2016, Bộ Tư pháp đã thực hiện thí điểm tại 04 thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh) việc kết nối dữ liệu khai sinh từ cơ quan đăng ký hộ tịch với Trung tâm cấp số định danh của Bộ Công an để cấp số định danh cá nhân cho trẻ em khi thực hiện đăng ký khai sinh.
Theo báo cáo của các địa phương, năm 2015 ước tính cả nước thực hiện đăng ký khai sinh, đăng ký lại việc sinh cho 2.490.094 trường hợp (tăng 15.717 trường hợp so với cùng kỳ năm 2014), trong đó, đăng ký khai sinh mới cho 1.967.559 trường hợp (giảm 11.636 trường hợp so với năm 2014), đăng ký lại 517.953 trường hợp (tăng 22.771 trường hợp so với năm 2014) và có 4.582 trường hợp khai sinh có yếu tố nước ngoài; khai tử cho 512.489 trường hợp (tăng 10.454 trường hợp so với cùng kỳ năm 2014); đăng ký kết hôn cho 775.093 cặp (giảm 32.452 cặp so với năm 2014), trong đó có 14.218 trường hợp có yếu tố nước ngoài (tăng 432 trường hợp so với năm 2014). Nhìn vào biểu đồ dưới đây (Biểu đồ số 06), có thể thấy rằng, số lượng việc đăng ký hộ tịch ngày càng tăng, nhất là trong những năm cuối của nhiệm kỳ.
Biểu đồ số 06: Số lượng đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn từ năm 2011-2015
- Công tác quốc tịch: Việc giải quyết hồ sơ cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam bảo đảm đúng quy định pháp luật; các Bộ, cơ quan đã phối hợp giải quyết kịp thời và ngày càng đồng bộ hơn. Cơ sở dữ liệu quốc tịch cũng đã bước đầu được hình thành, đáp ứng yêu cầu về tra cứu thông tin quốc tịch của các cơ quan và địa phương, hướng đến việc thực hiện qua mạng điện tử trên toàn quốc đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực quốc tịch. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chủ tich nước giải quyết 4.974 hồ sơ xin nhập, xin trở lại, xin thôi quốc tịch Việt Nam (giảm 1.524 hồ sơ so với năm 2014). Trả lời 2.673 trường hợp tra cứu quốc tịch theo đề nghị của các cơ quan. Tính chung trong 5 năm qua, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chủ tịch nước cho phép hơn 40.000 trường hợp xin nhập, trở lại và thôi quốc tịch Việt Nam; trả lời tra cứu, xác minh hơn 15.000 trường hợp từ các cơ quan và các Sở Tư pháp gửi về; đặc biệt, đã giải quyết cho 4.571 người không quốc tịch được nhập quốc tịch Việt Nam theo quy định Điều 22 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008.
- Công tác chứng thực: Năm 2015, thể chế công tác chứng thực tiếp tục được hoàn thiện với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính cũng đã liên tịch ban hành Thông tư liên tịch số 158/2015/TTLT-BTC-BTP ngày 12/10/2015 quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí chứng thực. Việc hoàn thiện thể chế ở tầm luật nhằm giải quyết những bất cập đối với công tác này đang được khẩn trương thực hiện, dự án Luật chứng thực đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2016. Việc thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 20/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện TTHC bước đầu đã mang lại những hiệu quả tích cực với số lượng bản sao chứng thực năm 2015 đã giảm đáng kể so với năm 2014, góp phần đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa TTHC, giảm bớt phiền hà, tốn kém cho người dân, tránh lãng phí cho xã hội trong quá trình thực hiện TTHC, giảm áp lực, quá tải đối với Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã trong công tác chứng thực. Ước cả năm 2015, trên toàn quốc thực hiện được 7.939.620 việc chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch (tăng 1.891.479 việc, tương đương tăng 31,27% so với năm 2014) và chứng thực 78.523.438 bản sao (giảm 942.824 bản sao so với năm 2014); tổng số lệ phí chứng thực thu được hơn 480 tỷ đồng (tăng khoảng 41,5 tỷ đồng so với năm 2014).
Nhìn lại nhiệm kỳ 2011-2015, có thể thấy rằng, với định hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả quản lý các hoạt động hành chính tư pháp, các lĩnh vực công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực từng bước có chuyển biến, dần được hiện đại hóa và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân. Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch đã dần đi vào nền nếp, phục vụ ngày càng tốt hơn cho công tác quản lý dân cư, quản lý xã hội. Việc Quốc hội thông qua Luật hộ tịch - văn bản đầu tiên ở tầm luật điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch hứa hẹn sẽ tạo bước đột phá trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cư nói chung.
b) Công tác nuôi con nuôi
Năm 2015, ước tính, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết 2.787 trường hợp nuôi con nuôi trong nước (giảm 137 trường hợp so với năm 2014); 528 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (tăng 30 trường hợp so với năm 2014) – Xem Biểu đồ số 07. Tính chung cả nhiệm kỳ 2011-2015, đã giải quyết 13.187 trường hợp nuôi con nuôi trong nước và 2.260 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; số lượng các địa bàn các tỉnh, thành phố tham gia giải quyết việc nuôi con nuôi nước ngoài đã được mở rộng (hiện nay tổng số có 47 tỉnh, thành phố). Việc tuyên truyền về đăng ký nuôi con nuôi thực tế được đẩy mạnh. Công tác tiếp nhận và giải quyết các vướng mắc, khó khăn của địa phương trong lĩnh vực nuôi con nuôi được quan tâm, hướng dẫn kịp thời. Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động của các Văn phòng con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được đổi mới. Vị trí của Cơ quan Trung ương về con nuôi quốc tế của Việt Nam đã dần được quốc tế khẳng định.
Trong nhiệm kỳ 2011-2015, thể chế về nuôi con nuôi tiếp tục được hoàn thiện, đảm bảo thực hiện có hiệu quả Luật nuôi con nuôi năm 2010 và ngày càng gần hơn với những chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền của trẻ em. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế đã mở ra cơ hội hợp tác quốc tế mới, từ song phương sang đa phương trong lĩnh vực mang tính nhân đạo sâu sắc này, đồng thời tăng cường cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em khi được giải quyết làm con nuôi người nước ngoài.
Biểu đồ số 07: số lượng trẻ em được giải quyết làm con nuôi từ năm 2011-2015
c) Công tác lý lịch tư pháp
Công tác lý lịch tư pháp (LLTP) tiếp tục được Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm triển khai thực hiện. Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015 phê duyệt ''Đề án thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến'', triển khai thực hiện Đề án, đến nay đã có 17/63 Sở Tư pháp thực hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính; 50/63 Bưu điện tỉnh, thành phố ký kết hợp đồng với Sở Tư pháp để triển khai thực hiện dịch vụ chuyển phát hồ sơ, kết quả cấp Phiếu LLTP[31]; việc triển khai Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về tăng cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu LLTP được các địa phương tích cực thực hiện. Cùng với đó, việc áp dụng phương thức mới trong việc nhận hồ sơ yêu cầu, trả kết quả cấp Phiếu LLTP thông qua mô hình “Kiềng 3 chân” (Trung tâm - Cục C53 - Sở Tư pháp) tại Trung tâm LLTPQG và 30 Sở Tư pháp đã mang lại hiệu quả tích cực, cơ bản tháo gỡ được “điểm nghẽn” về thời hạn cấp Phiếu, được người dân đồng tình, ủng hộ; đã cấp gần 5 vạn Phiếu bảo đảm thời hạn theo quy định.
Năm 2015, các Sở Tư pháp đã cấp được 306.818 Phiếu LLTP[32] (tăng 6.710 phiếu so với năm 2014 và tăng hơn 2,3 lần so với năm 2011); Bộ Tư pháp cấp 166 Phiếu LLTP của người nước ngoài có thời gian cư trú tại Việt Nam. Theo Biểu đồ số 08, số Phiếu LLTP được cấp tăng hàng năm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân và yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Biểu đồ số 08: Số Phiếu LLTP đã cấp trong nhiệm kỳ 2011-2015
Nhìn lại nhiệm kỳ 2011-2015, việc triển khai nhiệm vụ về LLTP đã được thực hiện khá đồng bộ từ Trung ương đến địa phương và đạt nhiều kết quả, thể hiện ở số Phiếu cấp tăng dần qua mỗi năm. Thể chế về LLTP đã cơ bản hoàn thiện; định hướng phát triển đã được xác định rõ trong Chiến lược phát triển LLTP đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030[33]; tổ chức bộ máy làm công tác LLTP đã được kiện toàn từ Trung ương đến các Sở Tư pháp; công tác chuyên môn ngày càng đi vào nền nếp với việc ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ; cơ sở dữ liệu LLTP đã bước đầu được hình thành theo mô hình hai cấp; thủ tục cấp Phiếu được cải cách mạnh mẽ; đặc biệt, giải pháp “Kiềng ba chân” và việc thực hiện thí điểm cấp Phiếu qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu trực tuyến tạo tiền đề để giải quyết cơ bản tình trạng chậm cấp Phiếu LLTP, phục vụ tốt hơn yêu cầu của người dân.
d) Công tác đăng ký giao dịch bảo đảm
Năm 2015, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành tập trung sửa đổi các thông tư, thông tư liên tịch về lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu đăng ký, khắc phục một số bất cập trong thực hiện thủ tục thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai, xóa bỏ quy định giới hạn phạm vi thẩm quyền giải quyết yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời đang chuẩn bị triển khai phương án thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 4 đối với lĩnh vực này. Năm 2015, 03 Trung tâm Đăng ký giao dịch tài sản đã tiếp nhận và giải quyết 383.010 đơn yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin (tăng 24,62% so với năm 2014). Số đơn đăng ký trực tuyến chiếm 44.2% tổng số đơn đăng ký.
Trong nhiệm kỳ 2011-2015, các quy định về quy trình đăng ký, cung cấp thông tin đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng thuận tiện, khoa học và giảm chi phí, tạo được niềm tin, uy tín đối với khách hàng về chất lượng phục vụ của cơ quan đăng ký. Hệ thống đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm đã mang lại sự tiện tích, hiệu quả, là bước đột phá và điểm nhấn nổi bật trong việc cung cấp các dịch vụ công của Bộ Tư pháp.
đ) Công tác bồi thường nhà nước
Năm 2015, việc hoàn thiện thể chế trong công tác bồi thường tiếp tục được đẩy mạnh[34]; các hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoạt động giải quyết bồi thường được thực hiện thường xuyên; công tác phối hợp quản lý nhà nước trong công tác bồi thường (nhất là trong lĩnh vực tố tụng) được thực hiện hiệu quả hơn; việc rà soát, lập danh sách các vụ việc bồi thường, trao đổi, thống nhất các giải pháp để hướng dẫn giải quyết dứt điểm những vụ việc phức tạp được xã hội quan tâm[35], công tác giải đáp vướng mắc về pháp luật và hỗ trợ thủ tục pháp lý cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường bảo đảm kịp thời; công tác giải quyết bồi thường cũng đạt được kết quả đáng kể, đã thụ lý giải quyết 94 việc (trong đó có 44 việc thụ lý mới, tương đương với năm 2014), đã giải quyết xong 41/94 việc (đạt tỉ lệ 43.6%) với số tiền Nhà nước phải bồi thường trong các quyết định giải quyết bồi thường, bản án, quyết định về giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật là 16 tỷ 437 triệu 786 nghìn đồng (trong đó riêng việc của ông Nguyễn Thanh Chấn, Bắc Giang, số tiền phải bồi thường là 7,2 tỷ đồng).
Nhìn chung, công tác quản lý về bồi thường nhà nước được triển khai bước đầu có hiệu quả, hướng tới ngày càng bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, đồng thời làm chuyển biến sâu sắc ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ, từng bước đưa một trong những chính sách lớn của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống.
7.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Việc giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch ở một số địa phương vẫn còn sai sót[36], có trường hợp sai sót nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận. Tình trạng giải quyết thủ tục hành chính quá thời hạn theo quy định pháp luật vẫn còn tồn tại trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch[37]. Tỷ lệ đăng ký khai tử thấp, số đăng ký quá hạn cao.
- Một số địa phương còn lúng túng trong việc hướng dẫn người dân thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng giao dịch theo quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP; một bộ phận cán bộ, công chức tiếp nhận hồ sơ giải quyết TTHC vẫn có tâm lý e ngại khi phải tự đối chiếu bản sao với bản chính, tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao so với bản chính; người dân vẫn có tâm lý sợ mất bản chính và thói quen sử dụng bản sao có chứng thực đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân nên việc lạm dụng bản sao có chứng thực khi giải quyết TTHC vẫn còn xảy ra. Một số văn bản có quy định về việc nộp bản sao có chứng thực chưa được sửa đổi kịp thời theo Chỉ thị số 17/CT-TTg.
- Công tác triển khai thi hành Luật nuôi con nuôi và Công ước La Hay về con nuôi quốc tế còn chưa đồng đều ở các địa phương. Một số quy định pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi chưa thật sự sát với thực tiễn. Những vướng mắc trong việc sử dụng lệ phí đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài và huy động nguồn hỗ trợ nhân đạo chưa được tháo gỡ một cách thật sự triệt để và hiệu quả. Một số địa phương chưa chỉ định cơ sở nuôi dưỡng được giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài theo quy định của Luật nuôi con nuôi; hiện tượng trẻ em bị bỏ rơi trong nhà chùa chưa đưa vào cơ sở nuôi dưỡng còn phổ biến; số lượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, nhất là trẻ em khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo chưa tìm được mái ấm gia đình còn nhiều.
- Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu và cấp Phiếu LLTP vẫn còn tồn tại những điểm còn hạn chế. Việc lập LLTP và cập nhật thông tin LLTP bổ sung vào cơ sở dữ liệu tại một số Sở Tư pháp chưa được thực hiện kịp thời và số lượng thông tin còn tồn đọng khá lớn[38]. Vẫn còn tình trạng sai sót trong quá trình cập nhật, xử lý thông tin LLTP dẫn đến phải đính chính, bổ sung[39]. Việc xây dựng, tích hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ sở dữ liệu khác nhau chưa được thực hiện. Tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu LLTP và lạm dụng quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 của cá nhân vẫn còn[40].
- Hoạt động giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước ở một số Bộ, cơ quan, địa phương vẫn còn lúng túng; tiến độ giải quyết các yêu cầu về bồi thường, thực hiện thủ tục chi trả tiền bồi thường còn rất chậm và gặp nhiều khó khăn.
b) Nguyên nhân
- Đội ngũ cán bộ làm công tác hộ tịch, chứng thực, nuôi con nuôi, lý lịch tư pháp, bồi thường nhà nước ở địa phương còn thiếu, trình độ, năng lực còn hạn chế, nhất là cán bộ Tư pháp-Hộ tịch ở cấp xã. Trong đăng ký khai tử, việc thực hiện đang phụ thuộc nhiều vào ý thức tự giác của người dân, pháp luật chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm nên còn nhiều trường hợp không thực hiện đăng ký khai tử.
- Nhận thức của các cấp, các ngành về công tác hộ tịch, chứng thực, nuôi con nuôi, LLTP, bồi thường nhà nước còn hạn chế. Cơ chế phối hợp liên ngành trong giải quyết yêu cầu của người dân, doanh nghiệp trong các lĩnh vực cấp Phiếu LLTP, đăng ký giao dịch bảo đảm, nuôi con nuôi, bồi thường nhà nước chưa được xây dựng hoặc hoạt động thiếu nhịp nhàng, chặt chẽ, có công tác còn gặp nhiều khó khăn.
- Công tác hướng dẫn nghiệp vụ, giải quyết các kiến nghị của địa phương trong một số trường hợp còn chưa kịp thời. Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm còn chưa được Bộ, ngành, địa phương chú trọng thực hiện thường xuyên.
- Thể chế trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, LLTP, bồi thường nhà nước còn bất cập, chưa được sửa đổi kịp thời.
- Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin, việc xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử trong các lĩnh vực hộ tịch, LLTP còn hạn chế và chưa đồng đều.
8. Quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý
8.1. Kết quả đạt được
a) Lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật: Bộ Tư pháp đã phối hợp với Liên đoàn luật sư Việt Nam, các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ II; phê duyệt Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam; kiện toàn Đảng đoàn Liên đoàn luật sư Việt Nam...; công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật cũng được chú trọng, tăng cường[41]. Bộ Tư pháp đã cấp trên 1.000 Chứng chỉ hành nghề luật sư, 32 Giấy phép hành nghề tại Việt Nam cho luật sư nước ngoài, 08 Giấy phép thành lập chi nhánh, công ty luật nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến nay, cả nước có 3.520 tổ chức hành nghề luật sư (tăng 103 so với năm 2014, tăng 687 so với năm 2011) với 9.915 luật sư được cấp chứng chỉ hành nghề (tăng 540 luật sư so với năm 2014 và tăng 2.714 so với năm 2011). Biểu đồ số 09 cho thấy, trong nhiệm kỳ 2011-2015, số lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư đều tăng và tăng mạnh ở các năm cuối nhiệm kỳ, bảo đảm đúng định hướng phát triển luật sư tại Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020. Ước tính năm 2015, các luật sư trong nước tham gia 211.153 việc (tăng 14.447 việc so với cùng kỳ năm 2014), nộp thuế gần 59,5 tỷ đồng.
Biểu đồ số 09: Số lượng luật sư và tổ chức hành nghề LS nhiệm kỳ 2011-2015
b) Về lĩnh vực công chứng: Để quy định chi tiết thi hành Luật công chứng (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015), Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình, ban hành 03/03 văn bản[42] được giao, đạt 100%; phối hợp với Bộ Tài chính ban hành 01 Thông tư liên tịch về phí trong lĩnh vực công chứng. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã chú trọng hướng dẫn các địa phương về việc chuyển giao thẩm quyền công chứng, chứng thực[43]; chỉ đạo, hướng dẫn thành lập Hội công chứng viên ở các địa phương[44] tiến tới thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam; tổ chức kiểm tra việc thực hiện Quy hoạch và tình hình tổ chức, hoạt động công chứng tại một số địa phương[45], kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật và Quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng. Tính đến hết năm 2015, cả nước có 895 tổ chức hành nghề công chứng (tăng 49 tổ chức so với năm 2014 và tăng gần 78% so với năm 2011), trong đó có 145 Phòng Công chứng và 750 Văn phòng công chứng, với tổng số công chứng viên là 2.063 (tăng 293 so với năm 2014 và tăng gần 2,2 lần so với năm 2011) - Xem Biểu đồ số 10. Bên cạnh đó, đến nay đã thành lập được 13 Hội công chứng ở địa phương[46]. Năm 2015, các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng được 4.497.971 hợp đồng, giao dịch (tăng khoảng 30% so với năm 2014), đóng góp cho Ngân sách nhà nước hoặc nộp thuế gần 478 tỷ đồng (tăng gần 178 tỷ đồng so với năm 2014). Triển khai quy định của Luật công chứng (sửa đổi) và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP, có địa phương (Lâm Đồng) đã chuyển đổi thành công Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, làm cơ sở cho việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng trong thời gian tới.
Biểu đồ số 10: Số lượng công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng nhiệm kỳ 2011-2015
c) Lĩnh vực giám định tư pháp: Công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp tiếp tục được tăng cường, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổ chức thành công Phiên họp lần thứ tư Ban chỉ đạo Đề án 258 cấp Trung ương; Bộ Tư pháp[47]; Bộ Công an, Ban Nội chính Trung ương, Văn phòng Chính phủ cũng đã tổ chức Đoàn kiểm tra liên ngành về tình hình thực hiện Đề án 258… Năm 2015, cả nước hiện có 4.855 người được bổ nhiệm là giám định viên chuyên trách và 967 giám định viên theo vụ việc; đã thực hiện được 136.184 vụ việc giám định (giảm 10.175 vụ việc so với năm 2014), trong đó có 102.483 vụ việc theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (chiếm hơn 75% tổng số vụ việc).
d) Lĩnh vực bán đấu giá tài sản: Tiếp tục thể chế hóa chủ trương, quan điểm đã được xác định trong các nghị quyết của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW theo hướng từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động bổ trợ tư pháp, xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động đấu giá tài sản Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan xây dựng và trình Chính phủ dự án Luật đấu giá tài sản với định hướng khắc phục những tồn tại, bất cập của hoạt động đấu giá tài sản hiện nay, đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan; nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp, tăng cường trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm nghề nghiệp của đấu giá viên, doanh nghiệp đấu giá tài sản. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Phát triển và tăng cường năng lực đội ngũ đấu giá viên giai đoạn 2013-2015, định hướng đến năm 2020”; công tác bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho địa phương cũng được thực hiện kịp thời[48]. Đến nay, cả nước có 370 Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, với 1.475 Đấu giá viên (tăng hơn 2,7 lần so với năm 2011). Năm 2015, các tổ chức bán đấu giá đã tổ chức đấu giá thành 18.821 cuộc (tăng 2.423 cuộc so với năm 2014), nộp ngân sách nhà nước hơn gần 369 tỷ đồng (tăng 76 tỷ đồng so với năm 2014).
đ) Lĩnh vực trọng tài thương mại: Triển khai Luật trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành: Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công Hội nghị sơ kết 04 năm thi hành Luật trọng tài thương mại và đang chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tính đến nay, cả nước có 14 Trung tâm trọng tài với 347 trọng tài viên. Số lượng vụ tranh chấp giải quyết bằng trọng tài cũng tăng hơn so với trước. Riêng năm 2015 các tổ chức trọng tài đã giải quyết 1.255 vụ việc, tăng 389 vụ việc so với năm 2014.
e) Lĩnh vực quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản: Đây là lĩnh vực mới, để triển khai thực hiện Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phá sản, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai Nghị định, hướng dẫn các địa phương về việc triển khai thực hiện Nghị định[49]; đến nay, Bộ Tư pháp đã cấp Chứng chỉ hành nghề quản tài viên cho 482 trường hợp. Sự ra đời của đội ngũ quản tài viên góp phần làm chuyên nghiệp hóa việc quản lý, thanh lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
g) Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: Công tác xây dựng thể chế về trợ giúp pháp lý tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án đổi mới công tác TGPL với nhiều định hướng quan trọng nhằm đưa hoạt động TGPL đi vào chiều sâu, thực chất, góp phần bảo đảm sự phát triển bền vững của hoạt động TGPL; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 17/9/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL. Năm 2015, các Trung tâm TGPL đã thực hiện 140.007 vụ việc TGPL trên tổng số 144.800 vụ việc tiếp tiếp nhận (tăng 35% so với năm 2014) cho 146.187 lượt người (tăng gần 11% so với năm 2014), trong đó vụ việc tham gia tố tụng tăng 33% từ 7.611 vụ việc lên 10.148 vụ việc. Tính chung cả nhiệm kỳ 2011-2015, các Trung tâm TGPL nhà nước đã thực hiện tổng số hơn 620.000 vụ việc tương ứng với hơn 652.000 lượt người, trong đó có 577.098 vụ việc tư vấn pháp luật; 36.681 vụ việc tham gia tố tụng; 1.052 vụ việc đại diện ngoài tố tụng; 707 vụ việc hòa giải và hơn 4.600 vụ việc khác.
Như vậy, trong suốt nhiệm kỳ 2011-2015, với nhận thức bổ trợ tư pháp là hoạt động quan trọng, góp phần bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức, công tác bổ trợ tư pháp được xác định là một trong công tác trọng tâm của Bộ, ngành, trong đó việc hoàn thiện thể chế về lĩnh vực này được ưu tiên thực hiện[50]. So với nhiệm kỳ 2007-2011, việc xã hội hóa, phát triển các nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp đạt được nhiều kết quả cụ thể theo đúng tinh thần cải cách tư pháp; số lượng luật sư ngày càng được tăng cường, hoạt động ngày càng chuyên nghiệp; việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng, về cơ bản, theo đúng quy hoạch, lộ trình, chất lượng dịch vụ được tăng cường. Hoạt động bổ trợ tư pháp đã góp phần quan trọng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với thông lệ quốc tế.
8.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp trong và tinh thần tự giác tuân theo pháp luật hoạt động hành nghề của một bộ phận luật sư chưa cao; chưa bầu được Chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam.
- Việc hướng dẫn thực hiện thẩm quyền công chứng, chứng thực còn lúng túng; việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng của một số địa phương chưa thực hiện đúng theo quy hoạch, chủ yếu là các tổ chức hành nghề công chứng nhỏ lẻ; vẫn còn sai sót trong quá trình tác nghiệp, gây hậu quả, thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, có trường hợp Công chứng viên bị truy tố.
- Tổ chức và hoạt động của phần lớn doanh nghiệp bán đấu giá còn chưa chuyên nghiệp, có quy mô nhỏ; việc thành lập Hội đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất trong một số trường hợp còn chưa phù hợp với quy định của pháp luật; còn tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá, giá trị tài sản bán vượt mức giá khởi điểm chưa cao.
- Việc triển khai Luật giám định tư pháp còn gặp nhiều khó khăn; một số vướng mắc trong việc thực hiện giám định phục vụ một số vụ án lớn liên quan đến tham nhũng chưa được giải quyết kịp thời.
- Hệ thống tổ chức TGPL nhà nước chưa phù hợp và hoạt động chưa hiệu quả so với yêu cầu; công tác xã hội hóa hoạt động TGPL còn hạn chế; hoạt động TGPL đang dần chuyển hướng trọng tâm vào các vụ việc tố tụng, nhưng vẫn còn chậm. Kinh phí bố trí cho công tác TGPL về giảm nghèo còn hạn hẹp, việc cấp phát chậm nên ngân sách nhà nước chưa đảm bảo được kinh phí để thực hiện trong các Chương trình đã đề ra[51].
b) Nguyên nhân
- Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở một số nơi chưa được phát huy đầy đủ, năng lực tự quản còn hạn chế; công tác phối hợp giữa tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư và cơ quan quản lý nhà nước còn chưa nhịp nhàng.
- Việc theo dõi, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ trong lĩnh vực công chứng còn bất cập; công tác kiểm tra chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.
- Pháp luật về bán đấu giá tài sản hiện hành chưa đồng bộ, chưa thống nhất, nhất là về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản đôi lúc, đôi nơi còn buông lỏng; công tác thanh tra, kiểm tra còn chưa thực hiện thường xuyên; việc xử lý các vi phạm trong hoạt động bán đấu giá còn chưa kịp thời.
- Nhận thức của một số cán bộ các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan tiến hành tố tụng về công tác xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp này còn hạn chế, chưa đầy đủ; các tổ chức chuyên môn, các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực giám định còn có tâm lý e ngại trong việc cung cấp dịch vụ chuyên môn cho hoạt động tố tụng.
- Nhận thức của một số cán bộ làm công tác quản lý và thực hiện TGPL ở Trung ương và địa phương về công tác TGPL trong giai đoạn mới còn chưa đầy đủ, thông suốt. Thể chế về TGPL còn nhiều bất cập; công tác quản lý nhà nước về TGPL còn thiếu sự kết nối giữa Trung ương và địa phương; hệ thống tổ chức TGPL nhà nước chưa phù hợp và hoạt động chưa hiệu quả so với yêu cầu thực tiễn do chưa tính đến đặc thù vùng miền.
9. Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
9.1. Kết quả đạt được
a) Công tác pháp luật quốc tế
Thể chế cho công tác cấp ý kiến pháp lý đã có bước hoàn thiện quan trọng với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2015/NĐ-CP ngày 26/5/2015 về cấp ý kiến pháp lý. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã đàm phán và cấp 47 ý kiến pháp lý cho các hiệp định vay nước ngoài (giảm 23 ý kiến pháp lý so với năm 2014). Việc chủ trì và đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp quốc tế là nhiệm vụ mới được giao cho Bộ Tư pháp từ năm 2013 nhưng đã liên tục đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tiếp theo thắng lợi của 02 vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế (một vụ năm 2013 và một vụ năm 2014), năm 2015 Chính phủ Việt Nam tiếp tục giành thắng lợi thêm vụ thứ ba; hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong giải quyết 02 vụ việc nhà đầu tư nước ngoài kiện Chính phủ Việt Nam. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng hỗ trợ một số địa phương trong việc nâng cao năng lực xử lý các vấn đề pháp luật quốc tế, giải quyết các tranh chấp do nhà đầu tư nước ngoài kiện UBND cấp tỉnh; trực tiếp thẩm định 132 điều ước quốc tế; góp ý 417 điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế; tham gia đàm phán, chỉnh lý nhiều hiệp định thương mại (như TPP, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu...).
Về lĩnh vực tương trợ tư pháp: Bộ Tư pháp đang chuẩn bị các điều kiện để bảo đảm thi hành Công ước La Hay về tổng đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp khi Việt Nam chính thức gia nhập Công ước này. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã thực hiện 800 hồ sơ ủy thác tư pháp theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài (giảm 121 hồ sơ so với năm 2014); gửi 3.727 hồ sơ đến các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giải quyết (tăng 197 hồ sơ so với năm 2014); tiếp nhận và chuyển 15 yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, Trọng tài nước ngoài (tương đương với năm 2014). Bộ Tư pháp cũng đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả tổng kết 20 năm thực thi Công ước Niu - ước năm 1958 về công nhận và cho thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp được giao là cơ quan đầu mối quốc gia trong thực hiện Công ước này.
b) Công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
Năm 2015, thể chế cho công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật tiếp tục được hoàn thiện với việc ban hành Thông tư số 07/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 113/2014/NĐ-CP về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật và nghiên cứu, xây dựng các Đề án, văn bản để triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật [52]. Số lượng đàm phán, ký kết các Thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật tăng hàng năm (xem biểu đồ số 11).
Biểu đồ số 11: Tình hình ký kết, đàm phán Thỏa thuận quốc tế của Bộ Tư pháp nhiệm kỳ 2011-2015
- Hợp tác đa phương toàn cầu tiếp tục được đẩy mạnh thông qua việc hoàn thiện thủ tục trình Hồ sơ gia nhập/Đề án nghiên cứu khả năng gia nhập các tổ chức quốc tế đa phương về pháp luật (ALLCO, UNIDROIT, IDLO)[53], tăng cường quan hệ hợp tác với các tổ chức của Liên hợp quốc (UNDP, UNWOMEN, UNODC, UNICEF…), Ngân hàng thế giới, IFC...
- Hợp tác đa phương khu vực tiếp tục được chú trọng, đặc biệt đối với hợp tác ASEAN và Liên minh châu Âu với các hoạt động cụ thể như: xây dựng và thực hiện Kế hoạch tuyên truyền, quảng bá ASEAN của Bộ Tư pháp; tích cực tham gia các hoạt động tiến tới thành lập Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015; nghiên cứu xây dựng Sáng kiến mới của Việt Nam trong ASEAN về “Thiết lập và triển khai Nhóm quan hệ đối tác pháp luật ASEAN”, tham dự Hội nghị Bộ trưởng tư pháp các nước ASEAN (ALAWMM) lần thứ 9 và Hội nghị Quan chức pháp luật cao cấp ASEAN (ASLOM) lần thứ 16; xây dựng dự án mới với EU về Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam (Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thay mặt Chính phủ ký kết Hiệp định tài chính về Dự án vào ngày 28/11/2015 nhân chuyến thăm và làm việc của Thủ tướng Chính phủ tại Liên minh Châu Âu).
- Hợp tác song phương: đã thúc đẩy hiệu quả quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước láng giềng có chung đường biên giới, làm sâu sắc quan hệ hợp tác với Lào - Campuchia. Quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã được nối lại và làm sâu sắc hơn (như Nga, Séc, Slovakia, Azerbaijan, Hungary, Armenia). Cùng với đó, Bộ, ngành Tư pháp cũng thúc đẩy các quan hệ hợp tác với các đối tác truyền thống, đối tác chiến lược, toàn diện như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Singapore; thiết lập và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác mới như Luxambua, Xrilanca, U-dơ-be-ki-xtan, Cata, Nam Phi, Angieri...
Nhiệm kỳ 2011-2015, công tác pháp luật quốc tế ngày càng được chú trọng và đạt nhiều kết quả. Bộ, ngành Tư pháp đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc bảo đảm về mặt pháp lý trong các lĩnh vực, hoạt động có liên quan đến pháp luật quốc tế, qua đó nâng cao vị thế của Bộ, Ngành; khuôn khổ pháp lý về việc phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đã được hình thành; công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương đã dần đi vào nền nếp theo Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế[54], đã góp phần làm nên thắng lợi liên tiếp của ba vụ tranh chấp trong thời gian năm 2014 và năm 2015. Công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật không ngừng được thúc đẩy trên cả ba bình diện toàn cầu, khu vực và song phương, qua đó phục vụ, hỗ trợ tích cực cho các hoạt động của Bộ, Ngành, đóng góp chung vào thành tựu đối ngoại của đất nước năm 2015 và nhiệm kỳ 2011-2015.
9.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
9.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Tính chủ động, hiệu quả phòng ngừa của các địa phương trong giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế chưa cao. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực tương trợ tư pháp chưa bao quát đầy đủ các lĩnh vực. Nhiều yêu cầu ủy thác tư pháp về dân sự không có kết quả, ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng và việc giải quyết các vụ việc dân sự - thương mại; tỷ lệ không công nhận các quyết định của trọng tài nước ngoài còn cao, nhất là các quyết định của trọng tài liên quan đến các doanh nghiệp của Mỹ, Anh, Thụy Sỹ...
- Việc tổ chức triển khai thực hiện các văn kiện hợp tác quốc tế tuy đã được quan tâm nhưng chưa được rà soát, điều chỉnh, cụ thể hóa kịp thời thành các hoạt động hợp tác hàng năm để khai thác, tranh thủ tối đa kết quả hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Bộ, Ngành trong bối cảnh chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Một số hội nghị, hội thảo quốc tế được tổ chức chưa thực sự hiệu quả, thậm chí có trường hợp chưa tuân thủ các quy định về đối ngoại; việc chia sẻ thông tin, chế độ báo cáo về kết quả các chuyến công tác, kết quả hội nghị, toạ đàm chưa kịp thời. Kết quả hỗ trợ trong hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật chủ yếu mới tập trung ở các cơ quan Trung ương mà chưa vươn tới các địa phương.
b) Nguyên nhân
- Một số địa phương chưa nắm được quy định về cơ chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Sự phối hợp trong ủy thác tư pháp về dân sự giữa các cơ quan còn nhiều khó khăn; cơ quan tố tụng chưa cân nhắc đến các quy định của Công ước Niu – ước năm 1958 về Công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài khi ra các phán quyết không công nhận quyết định của trọng tài nước ngoài.
- Nhân lực thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật còn mỏng; một số cán bộ, công chức làm công tác hợp tác quốc tế tại các đơn vị chưa nắm bắt đầy đủ quy trình, nghiệp vụ trong triển khai các chương trình, dự án hợp tác.
10.1. Kết quả đạt được
a) Công tác xây dựng Ngành
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, ngành Tư pháp trong nhiệm kỳ 2011-2015 không ngừng được tăng cường, mở rộng và làm sâu sắc thêm[55]. Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ đã hệ thống hóa, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn cho Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình củng cố[56], kiện toàn và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ, ngành Tư pháp. Tính đến hết năm 2015, tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp có 37 đơn vị, tăng 09 đơn vị so năm 2009[57], trong đó một số đơn vị đã được chuyển đổi mô hình hoạt động từ Vụ thành Cục để đáp ứng yêu cầu gắn xây dựng thể chế với tổ chức thực thi pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong giai đoạn mới.
Đối với các cơ quan tư pháp địa phương, cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đã được kiện toàn theo Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV. Đến nay đã có 57/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, các địa phương còn lại cũng đã cơ bản hoàn thành dự thảo Quyết định để trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định[58]. Đồng thời, căn cứ hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, các địa phương cũng đã kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các Phòng Tư pháp cấp huyện và nhiệm vụ công tác tư pháp cấp xã. Trên cơ sở các quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được ban hành, các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đang tiến hành sắp xếp, bố trí cán bộ, sửa đổi quy chế làm việc.
b) Quản lý nhà nước về công tác pháp chế
Việc phối hợp, quản lý nhà nước trong công tác pháp chế được chú trọng tăng cường. Năm 2015, đã đẩy mạnh phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Ủy ban Dân tộc; Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp với Bộ Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2015-2020; phối hợp với các Bộ, ngành, doanh nghiệp tổ chức các Hội nghị sinh hoạt pháp chế thường niên (Bảo hiểm XHVN, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam...).
Thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP, ở Trung ương, tính đến năm 2015, tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ đều đã thành lập Cục, Vụ Pháp chế; tổ chức pháp chế của các cơ quan thuộc Chính phủ cũng đã được thành lập, củng cố, kiện toàn; ở nhiều Tổng cục và tương đương, Cục trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ cũng đã thành lập tổ chức pháp chế chuyên trách hoặc bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác pháp chế. Đến nay, có 5.759[59] người làm công tác pháp chế (chuyên trách là 1.784 người, kiêm nhiệm là 3.975 người) được biên chế tại các tổ chức pháp chế thuộc Bộ, ngành, hầu hết đều có trình độ đại học luật trở lên. Ở cơ quan chuyên môn thuộc UBND các tỉnh, thành phố, đã thành lập được 286 Phòng Pháp chế (trước năm 2011 có 40 Phòng Pháp chế và có 70 Tổ công tác pháp chế), với số lượng là 2.059 người, trong đó có 1.071 người có trình độ đại học luật trở lên đạt hơn 52% (chuyên trách là 1.312 người, kiêm nhiệm là 747 người).
c) Công tác cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng
Trong nhiệm kỳ 2011-2015, đội ngũ cán bộ, công chức của ngành Tư pháp ngày càng lớn mạnh bước đầu cơ bản đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tính đến nay, toàn Ngành có tổng số 39.750 cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, Bộ Tư pháp có 1.724 người[60], các địa phương có 26.433 người (các Sở Tư pháp: 5.572, các Phòng Tư pháp: 3.186, cấp xã: 17.675 công chức Tư pháp – Hộ tịch, với gần 55% số xã có từ 02 công chức trở lên); các cơ quan THADS có 11.593 người (Xem Biểu đồ số 12).
Biểu đồ số 12: Số lượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Tư pháp
Công tác quản lý cán bộ tiếp tục có sự đổi mới và chuyển biến tích cực, theo chủ trương của Đảng về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; triển khai và thực hiện đúng quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức[61]; chất lượng tuyển dụng công chức, viên chức được chú trọng nâng cao. Công tác bổ nhiệm cán bộ có sự đổi mới mang tính đột phá, tổ chức thí điểm thi tuyển Lãnh đạo cấp Vụ tạo sự cạnh tranh lành mạnh, thu hút nhân tài vào các vị trí cán bộ chủ chốt của Bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng được nâng tầm chiến lược[62];
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của Bộ, ngành Tư pháp từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được nâng cao, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ quản lý, thực thi pháp luật và tư pháp của Bộ, Ngành[63] (41,3% có trình độ trên đại học, 51% trình độ đại học); đặc biệt, với việc về đích sớm 2 năm việc thực hiện Quy hoạch thành lập mạng lưới các trường Trung cấp Luật, đã tạo điều kiện quan trọng tăng cường đào tạo nguồn cán bộ pháp luật cho các địa phương, nhất là cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã trong những năm qua.
Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ được thực hiện nghiêm túc, chất lượng, làm cơ sở quan trọng để Bộ Tư pháp làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sạch, vững mạnh, có trình độ và năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Ngành trong thời gian tới. Thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, một số cán bộ lãnh đạo Bộ, cấp Vụ được đưa vào diện quy hoạch cán bộ cấp chiến lược, thể hiện sự quan tâm, tín nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ, công chức của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác đào tạo tại các cơ sở đào tạo của Bộ ngày càng được đẩy mạnh. Hoạt động đào tạo của Trường Đại học Luật Hà Nội có nhiều đổi mới[64], Trường tích cực triển khai Dự án đầu tư xây dựng Cơ sở 2 tại Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 2015, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức tốt nghiệp cho sinh viên chính quy khóa (2011 - 2015) với tổng số 1.509 sinh viên; Học viện Tư pháp đã tổ chức đào tạo 2.396 học viên[65], bồi dưỡng các chức danh tư pháp, cán bộ pháp luật, bồi dưỡng ngạch và tiêu chuẩn quản lý lãnh đạo cho 3.584 lượt học viên và công nhận tốt nghiệp cho 402 học viên về nghiệp vụ công chứng, đấu giá; các Trường Trung cấp luật đã tổ chức tuyển sinh 8.038 học viên[66], cơ sở vật chất phục vụ dạy và học tại các Trường Trung cấp luật được quan tâm đầu tư. Đã tổ chức khánh thành giai đoạn 1 xây dựng Trường Trung cấp Luật Đồng Hới, góp phần to lớn, phục vụ cho việc nâng cao điều kiện dạy và học cho nhà trường, đồng thời mở ra khả năng hợp tác đào tạo cán bộ pháp luật cho CHDCND Lào.
d) Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý
Với vai trò đầu mối giúp Chính phủ tổ chức triển khai nhiệm vụ tổng kết nhiệm kỳ 2011-2015 việc thi hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 22/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện, bảo đảm yêu cầu về chất lượng, tiến độ. Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã hoàn thành Báo cáo[67] và giúp Chính phủ xây dựng Báo cáo của Ban Cán sự Đảng Chính phủ về việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW.
Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã triển khai: 48 nhiệm vụ khoa học (25 nhiệm vụ chuyển tiếp; 23 nhiệm vụ giao mới triển khai trong năm 2015). Trong đó có: 03 đề tài cấp nhà nước; 28 nhiệm vụ cấp bộ (bao gồm: 01 đề tài và 01 đề án thuộc chương trình; 25 đề tài; 01 đề án khảo sát, đánh giá tác động kinh tế - xã hội của việc thí điểm thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố); 10 nhiệm vụ cấp cơ sở (08 đề tài; 01 đề án và 01 hội thảo). Tại các cơ sở đào tạo của Bộ, công tác nghiên cứu khoa học pháp lý tiếp tục được đẩy mạnh, phục vụ đắc lực cho công tác giảng dạy[68].
Nhiệm kỳ 2011-2015, công tác nghiên cứu khoa học đã góp phần tích cực vào việc xây dựng các luận cứ lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các dự án luật lớn do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (Bộ Luật dân sự (sửa đổi), Bộ Luật hình sự (sửa đổi), Luật ban hành VBQPPL (hợp nhất), Luật trợ giúp pháp lý, Luật chứng thực, Luật hộ tịch...); góp ý hoàn thiện những nội dung liên quan tới xây dựng Nhà nước pháp quyền, xác định định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; giải đáp được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần quan trọng vào việc triển khai nhiều nhiệm vụ quản lý của ngành trên các lĩnh vực như thi hành án, hành chính tư pháp, trợ giúp pháp lý, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật...
10.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Việc triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV mới chỉ tập trung vào việc ban hành kế hoạch thực hiện và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp mà chưa quan tâm toàn diện đến các vấn đề kiện toàn về biên chế, cán bộ nên dẫn đến những khó khăn, lúng túng trong quá trình sắp xếp cán bộ theo mô hình tổ chức mới. Đến nay, vẫn còn 6/63 địa phương đang xây dựng dự thảo Quyết định[69].
- Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức, người lao động trong Ngành còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là sự gắn kết giữa chuyên môn luật với các lĩnh vực khác của kinh tế - xã hội.
- Việc kiện toàn tổ chức pháp chế ở địa phương còn chậm; chính sách thu hút đội ngũ người làm công tác pháp chế chậm được ban hành; tính chủ động trong việc triển khai các mặt công tác pháp chế ở một số tổ chức pháp chế từ Trung ương đến địa phương còn chưa cao; vẫn còn một số lãnh đạo Bộ, cơ quan, địa phương chưa coi trọng vị trí, vai trò công tác pháp chế trong chỉ đạo, điều hành kinh tế - xã hội dẫn đến việc bố trí chưa đủ nguồn lực để triển khai thực hiện.
- Việc triển khai một số Đề án về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn chậm so với yêu cầu đề ra, nhất là việc triển khai Đề án tổng thể "Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật" và Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” còn chậm. Việc xây dựng Pháp lệnh đào tạo một số chức danh tư pháp gặp nhiều vướng mắc.
- Tuyển sinh đào tạo hệ trung cấp luật còn gặp rất nhiều khó khăn. Chương trình và phương pháp đào tạo tuy có đổi mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Nội dung giảng dạy còn ít tính thực tiễn.
- Chất lượng của một số công trình nghiên cứu khoa học còn yếu, chưa có các phát hiện có giá trị khoa học cao, nghiên cứu hàn lâm còn ít; các giải pháp đưa ra trong nghiên cứu ứng dụng trong một số trường hợp còn chung chung, khó biến ý tưởng thành các giải pháp ứng dụng khả thi; chưa có giải pháp mang tính đột phá trong chuyển giao, quảng bá nghiên cứu đến địa chỉ ứng dụng để phục vụ kịp thời nhiệm vụ xây dựng pháp luật và quản lý ngành; việc thu hút các nhà khoa học trong và ngoài ngành, cũng như cán bộ tư pháp ở địa phương tham gia vào nghiên cứu còn hạn chế.
b) Nguyên nhân
- Khó khăn về biên chế, cán bộ của các cơ quan tư pháp nằm trong bối cảnh khó khăn chung của việc thực hiện quyết tâm tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; sự quan tâm của Lãnh đạo một số Bộ, ngành và địa phương trong việc kiện toàn cán bộ pháp chế, tư pháp chưa kịp thời; một số lãnh đạo địa phương chưa thực sự coi trọng vị trí, vai trò của công tác pháp chế; rất ít cán bộ tư pháp trúng cử cấp ủy tại Đại hội Đảng bộ các cấp; nhận thức về vị trí, vai trò và trách nhiệm của một số cơ quan, cán bộ tư pháp còn hạn chế nên chưa có sự đổi mới, đề cao tính sáng tạo, tích cực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Nguồn đầu vào để tuyển sinh đào tạo hệ trung cấp luật ngày càng thu hẹp do sự cạnh tranh của các cơ sở đào tạo, các loại hình đào tạo khác; chưa có đào tạo liên thông trung cấp – cao đẳng – đại học luật; kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở, vật chất của các Trường Trung cấp luật còn chưa kịp thời, đầy đủ.
- Lực lượng nghiên cứu khoa học pháp lý nhìn chung còn mỏng. Kinh phí phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học còn hạn chế; chưa có cơ chế phù hợp để thu hút, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành và các nhà khoa học trẻ tài năng.
11.1. Kết quả đạt được
a) Công tác kế hoạch, thống kê, ngân sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản
- Năm 2015 và nhiệm kỳ 2011-2015, công tác xây dựng kế hoạch ngày càng đi vào nền nếp, được thực hiện đúng quy trình. Hàng năm, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đều ban hành Kế hoạch công tác năm, trình Lãnh đạo Bộ phê duyệt, làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong năm. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã tích cực nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Thông tư số 20/2013/TT-BTP ngày 03/12/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành nhằm tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thống kê để nâng cao chất lượng thông tin thống kê, phục vụ có hiệu quả yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ, ngành.
- Trong điều kiện cân đối kinh tế vĩ mô còn gặp nhiều khó khăn, Bộ đã tích cực, chủ động trong việc lập và điều hành dự toán kinh phí bám sát sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ thường xuyên cũng như các nhiệm vụ trọng tâm cấp bách phát như tổng kết, xây dựng dự thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và tổ chức triển khai Hiến pháp, Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật dân sự (sửa đổi)... Triển khai có hiệu quả 02 Đề án "Đầu tư xây dựng trụ sở, kho vật chứng cho các cơ quan THADS, các cơ sở đào tạo và trụ sở làm việc cho các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, theo nghị quyết số 49-NQ/TW, nhiệm kỳ 2011-2015” và "Đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc cho cơ quan THADS giai đoạn 2011 - 2015” với việc hàng loạt dự án đầu tư xây dựng lớn được hoàn thành như: Dự án Nhà A Trường Đại học Luật Hà Nội, Dự án Trụ sở Học viện Tư pháp, Dự án đầu tư giai đoạn I của 04/05 Trường Trung cấp luật mới thành lập thuộc Bộ; Trụ sở Nhà Xuất bản Tư pháp, Trụ sở Cục Đăng ký quốc gia GDBĐ; hệ thống trụ sở, kho vật chứng cơ quan THADS được tăng cường.
b) Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
Tổ chức bộ máy thực hiện công tác thanh tra của Bộ Tư pháp tiếp tục được mở rộng với việc bổ sung chức năng thanh tra chuyên ngành cho Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực và Cục Bổ trợ tư pháp; các hoạt động thanh tra, kiểm tra đã được thực hiện một cách thường xuyên theo kế hoạch hoặc đột xuất. Một số địa phương đã tiến hành được nhiều công việc, thực hiện tốt kế hoạch công tác đã đề ra (như Hải Dương, An Giang, Ninh Bình, Bắc Giang, Quảng Bình, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Đắc Lắc, Bình Phước, Bình Dương, Tiền Giang, Cà Mau…).
Trong năm 2015, toàn ngành Tư pháp đã triển khai 572 cuộc thanh tra, kiểm tra (83 cuộc thanh tra hành chính, 444 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và 44 cuộc kiểm tra sau thanh tra, 11 cuộc thanh tra xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo). Riêng Bộ Tư pháp đã triển khai 28 đoàn thanh tra, kiểm tra (17 đoàn thanh tra theo kế hoạch, 02 Tổ công tác thu thập thông tin liên quan để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; 05 đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và 04 đoàn thanh tra đột xuất do phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu quản lý nhà nước). Tính cả nhiệm kỳ 2011-2015, Bộ Tư pháp đã tiến hành tổng số 134 cuộc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Kết quả, đã thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền là 1.423.985.256 đồng[70], xử phạt vi phạm hành chính số tiền là: 383.750.000 đồng[71].
Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng được thực hiện thường xuyên, đúng quy định. Các đơn vị thuộc Bộ đã phân công cán bộ, công chức có năng lực, chuyên môn phù hợp để thực hiện việc tiếp công dân theo quy định của Luật tiếp công dân; hàng tháng, Lãnh đạo Bộ đều tổ chức tiếp công dân theo lịch tiếp công dân được đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ. Năm 2015, Bộ Tư pháp đã tiếp 467 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo (tăng 80 lượt - 21% so với năm 2014) và tiếp nhận 2.221 đơn thư khiếu nại, tố cáo, trong đó có 531 đơn thuộc thẩm quyền (tăng 137 đơn - 34% so với năm 2014), 1.690 đơn không thuộc thẩm quyền (tăng 51 đơn - 37,8% so với năm 2014). Bộ, ngành Tư pháp cũng đã thực hiện nghiêm túc việc tổng kết 10 năm thực hiện luật phòng, chống tham nhũng.
11.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Công tác phân bổ, thực hiện dự toán vẫn còn điều chỉnh, bổ sung nhiều lần trong năm; tình trạng chậm quyết toán một số dự án hoàn thành theo quy định; thời gian thực hiện chủ trương đầu tư các dự án trong kế hoạch đầu tư trung hạn (2017-2020) bị kéo dài.
- Việc gửi báo cáo thống kê của một số cơ quan, địa phương còn chậm so với quy định; chất lượng báo cáo thống kê vẫn chưa cao, tuy có cải thiện một bước nhưng nhìn chung nhiều báo cáo vẫn còn mắc các lỗi bất hợp lý về nội dung số liệu nên phải đính chính, điều chỉnh nhiều lần.
- Công tác thanh tra chậm được đổi mới về phương thức hoạt động, một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao; một số địa phương chưa thực hiện thường xuyên, chưa kịp thời trong bối cảnh xã hội hóa một số lĩnh vực công tác tư pháp đã và đang được đẩy mạnh; xử phạt vi phạm hành chính, nhất là đối với các tổ chức nghề nghiệp (luật sư, công chứng, đấu giá...) còn thấp. Có trường hợp chưa làm hết trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tình trạng chậm giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn chưa được khắc phục. Việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành được giao tại Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Tư pháp còn chậm.
b) Nguyên nhân
- Dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ của một số đơn vị được xây dựng chưa sát, chậm xây dựng; một số thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm về công tác thống kê; kỷ luật trong công tác thống kê chưa cao...; kỹ năng thống kê số liệu của một số cán bộ làm công tác tổng hợp số liệu của một số Sở Tư pháp địa phương, một số cơ quan, đơn vị, nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế, chủ yếu còn thực hiện thủ công.
- Nhiều nhiệm vụ mới phát sinh, nhưng không được cấp bổ sung kinh phí, dẫn đến việc phải cân đối, điều chỉnh dự toán nhiều lần. Luật đầu tư mới được ban hành, chưa có văn bản hướng dẫn; nhiều chủ đầu tư không có chuyên môn về xây dựng nên việc tổ chức triển khai thực hiện dự án còn lúng túng, chậm tiến độ.
- Năng lực của một số cán bộ làm công tác thanh tra ở các cơ quan tư pháp vẫn còn hạn chế, đội ngũ cán bộ thanh tra còn thiếu về số lượng. Nhiều vụ việc khiếu nại có tính chất phức tạp, cần có sự thống nhất của nhiều ngành, nhiều cấp nên chưa bảo đảm được yêu cầu về mặt thời gian.
a) Công tác chỉ đạo, điều hành
Năm 2015 và cả nhiệm kỳ 2011-2015, công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ, ngành Tư pháp đã bám sát với công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các nhiệm vụ công tác tư pháp đã được Chính phủ quan tâm chỉ đạo, quy định trong Nghị quyết số 01/NQ-CP hàng năm, tạo cơ sở quan trọng cho sự thống nhất chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp một cách toàn diện và tập trung vào các nhóm nhiệm vụ trọng tâm từng năm. Các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành, phê duyệt kế hoạch công tác tư pháp/pháp chế của cơ quan, địa phương; tiếp tục quan tâm kiện toàn tổ chức, bộ máy; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai công tác. Trong năm 2015, công tác chỉ đạo điều hành cũng tập trung vào các hoạt động hướng tới những ngày lễ lớn của đất nước và đặc biệt là chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp (xây dựng Phòng Truyền thống, Nhà chờ ở Khu di tích của Bộ tại tỉnh Tuyên Quang, thi sáng tác bài hát truyền thống, logo về Ngành, thi văn nghệ, hội thao Ngành...), qua đó góp phần giáo dục truyền thống, vun đắp tình yêu Ngành, yêu nghề của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Ngành.
Công tác chỉ đạo, điều hành của các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với công tác tư pháp được thực hiện quyết liệt hơn, khả năng "phản ứng chính sách" đã có nhiều chuyển biến, đặc biệt trong công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực liên quan đến người dân, doanh nghiệp.
Để tăng cường công tác phối hợp trong chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp với các Bộ, cơ quan và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đoàn Đại biểu Quốc hội thông qua các buổi làm việc, các chuyến công tác, nhờ đó nhiều vướng mắc, khó khăn trong công tác tư pháp, THADS đã được giải quyết tốt hơn, đạt được sự đồng thuận cao hơn, đồng thời, đã thu hút nhiều hơn sự tham gia và giám sát của xã hội đối với quá trình xây dựng và thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Bộ, Ngành.
Tiếp tục thực hiện chủ trương “Hướng về cơ sở”, tập trung giải quyết các điểm nghẽn từ cơ sở, ngành Tư pháp đã tăng cường tổ chức các chuyến công tác tại địa phương để kịp thời nắm bắt những bất cập, vướng mắc chuyên môn ở cơ sở để chỉ đạo, hướng dẫn. Công tác hướng dẫn chuyên môn, trả lời kiến nghị địa phương, pháp chế Bộ, ngành được quan tâm đẩy mạnh. Trong năm 2015, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận 138 kiến nghị (trong đó, đợt sơ kết 06 tháng công tác tư pháp tiếp nhận 67 kiến nghị, đợt tổng kết công tác năm 2015 tiếp nhận 71 kiến nghị); Bộ Tư pháp đã có văn bản tổng hợp trả lời đối với 100% số kiến nghị.
Nhằm tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, toàn Ngành cũng đã tích cực triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ban hành và thực hiện Chuẩn mực đạo đức cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp. Toàn ngành Tư pháp đã nghiêm túc triển khai Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 25/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp không uống rượu, bia trong ngày làm việc, được dư luận xã hội đồng tình, đánh giá cao.
b) Công tác thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản
- Công tác báo chí, tạp chí, xuất bản đã bám sát nhiệm vụ công tác của Bộ, Ngành, thường xuyên được đổi mới về nội dung, hình thức của các ấn phẩm để đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, bảo đảm thông tin kịp thời, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, định hướng tốt hơn cho dư luận xã hội.
Năm 2015, Báo Pháp luật Việt Nam đã xây dựng thêm chuyên trang báo điện tử Truyền thông pháp luật Pháp luật+ (phapluatplus.vn); tổ chức sản xuất các số phụ với nhiều ấn phẩm phong phú[72]; đặc biệt, Báo đã tổ chức thành công “Chương trình Vinh danh Gương sáng Tư pháp” ghi nhận, biểu dương những cán bộ tư pháp nỗ lực vượt khó, phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp Tư pháp, góp phần đổi mới, phát huy sáng tạo, thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã biên tập, xuất bản, phát hành 12 số tạp chí định kỳ, 12 số tạp chí chuyên đề, 08 số tạp chí chuyên sâu và hoàn thành sách về "Ngành Tư pháp - 70 năm xây dựng và phát triển", góp phần thông tin sâu rộng về vị thế, vai trò công tác tư pháp trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng, phát triển đất nước.
Nhà xuất bản Tư pháp thực hiện tốt công tác biên tập, không để xảy ra sai sót về nội dung đối với các xuất bản phẩm; xuất bản, phát hành các loại sách, biểu mẫu, sổ hộ tịch, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và các cơ quan nhà nước. Trong năm 2015, Nhà xuất bản Tư pháp đã hoàn thành xuất bản 211 cuốn sách; triển khai in 3.705.000 tờ biểu mẫu, 25.885 cuốn sổ hộ tịch, 24.000 cuốn sổ thi hành án dân sự...
- Chương trình "Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời" tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Tư pháp quan tâm, tham gia, góp phần minh bạch, định hướng chính sách, tuyên truyền sâu rộng hơn về các quy định pháp luật có liên quan và các nhiệm vụ chính trị được giao của Bộ, ngành Tư pháp.
- Công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí tiếp tục được Bộ, các cơ quan, đơn vị trong Ngành thực hiện tốt. Tại Bộ Tư pháp, việc ban hành thông cáo báo chí các VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành được duy trì hàng tháng; việc tổ chức họp báo định kỳ và đột xuất được thực hiện đúng quy định, kịp thời cung cấp thông tin, mang lại hiệu quả thiết thực, trong đó hướng trọng tâm, trọng điểm vào những vấn đề thiết thực được báo chí, nhân dân, dư luận xã hội quan tâm, tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện để thăm dò dư luận; điểm tin báo chí hàng ngày, nắm bắt phản hồi của các cơ quan thông tấn, báo chí, giúp Lãnh đạo Bộ điều phối, chỉ đạo sâu sát, kịp thời các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ, Ngành.
c) Công tác ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính
- Công tác ứng dụng công nghệ thông tin luôn được Bộ, ngành Tư pháp xác định là giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ. Năm 2015, Bộ Tư pháp tiếp tục duy trì, đảm bảo vận hành an toàn, thông suốt Trung tâm dữ liệu điện tử của Bộ; đáp ứng hơn 100.000 lượt truy cập Cổng thông tin điện tử hàng ngày và hàng nghìn lượt truy cập của cán bộ, công chức trên các phần mềm nghiệp vụ. Bộ, Ngành tiếp tục xây dựng, nâng cấp triển khai các phần mềm ứng dụng phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ, phục vụ người dân và doanh nghiệp, cụ thể như: Phần mềm Quản lý văn bản, điều hành và hồ sơ lưu trữ; Hệ thống phần mềm Quản lý Lý lịch tư pháp (được nâng cấp để đáp ứng việc cấp phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến); Hệ thống phần mềm quản lý quốc tịch; Phần mềm Quản lý cán bộ và các chức danh tư pháp; Phần mềm hỗ trợ pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật... Các Trang thông tin trong một số lĩnh vực trọng tâm của Bộ được xây dựng và đưa vào hoạt động: Trang thông tin Thanh tra; Trang thông tin thống kê; Cổng thông tin điện tử pháp điển và đặc biệt, năm 2015, Bộ Tư pháp đã triển khai Trang thông tin cho toàn bộ 63 Cục Thi hành án dân sự toàn quốc.
Cùng với việc đưa Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật hoạt động chính thức, ngày 28/5/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2015/NĐ-CP về cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, trong đó quy định về việc xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác văn bản cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, hình thành môi trường nhập dữ liệu và khai thác dữ liệu VBQPPL thống nhất từ trung ương tới địa phương trên môi trường mạng. Đến nay, Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đã cập nhật được trên 80.000 văn bản do cơ quan Trung ương và địa phương ban hành, đáp ứng nhu cầu tra cứu, tìm hiểu và áp dụng pháp luật của người dân, doanh nghiệp; phục vụ đắc lực cho các cơ quan nhà nước trong công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất, pháp điển VBQPPL, thi hành và bảo vệ pháp luật.
Đến nay, 100% cán bộ, công chức, viên chức, các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương; Sở Tư pháp (đơn vị, Giám đốc, Phó Giám đốc, Chánh Văn phòng) đều được cấp hộp thư điện tử phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng 12.000 tài khoản). Các cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử để trao đổi công việc. Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp trong những năm gần đây liên tiếp đứng đầu trong danh sách các Bộ, ngành của nước ta về lượng truy cập trên toàn thế giới (theo xếp hạng của Alexa). Hệ thống Hội nghị truyền hình, giao ban, tập huấn trực tuyến được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực và đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả cho công tác chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực công tác của Bộ, Ngành, đặc biệt là phục vụ các Hội nghị lớn của Ngành.
- Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin cũng góp phần quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/6/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 30c/NQ-CP, giai đoạn 2011- 2015, Bộ, ngành Tư pháp tiếp tục quán triệt việc xác định cải cách hành chính là một khâu đột phá, trong đó đã xác định CCHC là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, công chức trước Đảng, trước nhân dân. Với vai trò là thành viên Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã tích cực tham gia, đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp có hiệu quả để đẩy mạnh các hoạt động cải cách hành chính nói chung và cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính nói riêng, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin là một trong những giải pháp được chú trọng. Quy trình giải quyết công việc của ngành Tư pháp từng bước phát huy hiệu quả nhờ sự cải tiến, đổi mới phương pháp xây dựng quy trình theo Hệ thống tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008.
Với những kết quả đạt được, trong nhiệm kỳ 2011-2015, Bộ Tư pháp luôn thuộc nhóm dẫn đầu trong Bảng xếp hạng mức độ Ứng dụng công nghệ thông tin của các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Hạ tầng kỹ thuật thông tin trong toàn Ngành được phát triển; các phần mềm ứng dụng chuyên ngành được đẩy mạnh xây dựng và triển khai, bước đầu đã đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa hành chính của ngành và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
d) Công tác thi đua khen thưởng
Năm 2015, các Cụm, các Khu vực thi đua của Ngành đã đẩy mạnh các phong trào thi đua, nhất là thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp. Xác định việc quan tâm phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt là biện pháp quan trọng tạo động lực mạnh mẽ cho phong trào thi đua của Ngành, nhân dịp tổ chức Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV, toàn Ngành đã tổ chức các Hội nghị điển hình tiên tiến và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã công nhận và tặng Bằng khen cho 103 tập thể và 122 cá nhân là điển hình tiên tiến ngành Tư pháp giai đoạn 2010-2015. Năm 2015, Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động cho 04 tập thể, 07 cá nhân; Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen cho 05 cá nhân; đặc biệt, nhân kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống, ngành Tư pháp đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Nhìn lại nhiệm kỳ 2011-2015 thấy rằng, công tác thi đua khen thưởng đã ngày càng thực chất, gắn với kết quả thực hiện kế hoạch công tác tư pháp hàng năm và nhiệm vụ chuyên môn được giao. Việc xếp hạng các Sở Tư pháp, Cục THADS hàng năm được thực hiện khách quan, chính xác, qua đó, sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương tới công tác tư pháp, THADS ngày càng cao. Việc tổ chức phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới” và “Cán bộ tư pháp tiếp tục đẩy mạnh Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và các phong trào thi đua hàng năm đã mang lại nhiều đóng góp tích cực, tạo động lực mạnh mẽ động viên từng cá nhân, đơn vị phát huy truyền thống, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, nêu cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bên cạnh đó, các Cụm, các Khu vực thi đua của Ngành ngày càng phát huy hiệu quả, phong trào thi đua đã dần đi vào chiều sâu, ngày càng thực chất, tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành các nhiệm vụ trong chương trình, kế hoạch công tác được giao.
12.2. Hạn chế và nguyên nhân
a) Hạn chế
- Chương trình, kế hoạch triển khai công tác năm 2015 tại một số địa phương, đơn vị thuộc Bộ ban hành còn chậm so với yêu cầu.
- Công tác hướng dẫn nghiệp vụ, chuyên môn, trả lời kiến nghị của các đơn vị vẫn còn chậm, các địa phương kiến nghị phải đề xuất nhiều lần, có trường hợp chưa bám sát nội dung kiến nghị. Nhiều kiến nghị của Bộ, ngành địa phương còn lặp lại nhiều lần. Một số đơn vị tổ chức các đoàn công tác địa phương còn chồng chéo về nội dung, việc tổ chức các hội nghị, hội thảo còn tập trung nhiều vào những tháng cuối năm, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết công việc chung.
- Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp còn hạn chế nhất là phần mềm quản lý văn bản điều hành; việc nghiên cứu, bổ sung các dịch vụ công trực tuyến còn chậm.
b) Nguyên nhân
- Công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ ở một số đơn vị chưa thực sự quyết liệt, chưa chú trọng vào khâu xây dựng chương trình, kế hoạch công tác.
- Một số đơn vị thuộc Bộ Tư pháp chưa tập trung cao cho việc trả lời kiến nghị, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ. Một số Bộ, ngành, địa phương chưa kịp thời cập nhật những hướng dẫn nghiệp vụ, trả lời kiến nghị từ Bộ Tư pháp. Việc xây dựng kế hoạch đi công tác địa phương, tổ chức các hội nghị, hội thảo chưa khoa học.
1. Về thực hiện công tác tư pháp năm 2015
Năm 2015, toàn Ngành đã khẩn trương triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát Chương trình, Kế hoạch công tác, các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhiệm vụ chính trị của từng địa phương; một số mặt công tác có chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao: Toàn Ngành đã tham gia tích cực, có hiệu quả vào văn kiện trình đại hội Đảng các cấp; đã tiếp tục phát huy tốt vai trò tham mưu, giúp Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương triển khai thi hành Hiến pháp 2013; tổ chức thành công Cuộc thi viết tìm hiểu Hiến pháp, thu hút sự tham gia rộng rãi của cán bộ, công chức và Nhân dân; công tác xây dựng pháp luật nói chung, việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nói riêng có chuyển biến tích cực, nhiều bộ luật, luật quan trọng đã được trình Quốc hội thông qua, được dư luận đánh giá cao, nhất là đối với các đạo luật lớn như Bộ luật dân sự (sửa đổi), Bộ luật hình sự (sửa đổi), Luật ban hành VBQPPL; kết quả thi hành án dân sự đạt cao hơn so với năm trước; thành công trong việc thí điểm chế định Thừa phát lại, được Quốc hội ghi nhận và cho triển khai chính thức; công tác hành chính tư pháp tiếp tục đạt kết quả tích cực, đã giải quyết một lượng lớn yêu cầu của người dân, chưa để xảy ra sai sót, bức xúc lớn; công tác lý lịch tư pháp từng bước khắc phục được tình trạng chậm cấp phiếu thông qua việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin; việc phát triển đội ngũ luật sư, xã hội hóa công chứng tiếp tục được đẩy mạnh, việc phát triển các nghề tư pháp đạt nhiều kết quả tích cực với sự ra đời của đội ngũ quản tài viên; việc tham gia với vai trò đại diện pháp lý cho Chính phủ giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế tiếp tục đạt một số kết quả quan trọng; quản lý nhà nước trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật được tăng cường; cơ sở dữ liệu quốc gia về VBQPPL được vận hành chính thức, phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước, bảo đảm quyền được thông tin và tiếp cận thông tin pháp luật của người dân, doanh nghiệp; Bộ, ngành Tư pháp đã hoàn thành nhiệm vụ giúp Ban Cán sự Đảng Chính phủ tổng kết công tác cải cách tư pháp nhiệm kỳ 2011-2015 và tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; toàn Ngành cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt động nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Truyền thống Ngành và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ IV, qua đó góp phần giáo dục truyền thống, vun đắp tình yêu Ngành, yêu nghề của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Ngành.
Những kết quả nêu trên đã khẳng định tốt hơn vai trò của các cơ quan tư pháp, pháp chế, góp phần vào thành tựu chung của địa phương, của đất nước về phát triển kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có được những kết quả nêu trên, trước hết là ngành Tư pháp tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành Trung ương, cấp ủy và chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và sự ủng hộ của Nhân dân; sự nỗ lực, phấn đấu của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động toàn Ngành trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tư pháp năm 2015 vẫn còn một số hạn chế, tồn tại. Mặc dù các Bộ, cơ quan đã có nhiều cố gắng và ngày càng chú trọng hơn đến việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh nhưng số lượng văn bản nợ đọng vẫn còn; hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật chưa cao; việc thi hành các vụ án lớn, liên quan đến thu hồi tài sản cho ngân sách nhà nước còn gặp nhiều khó khăn; việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn chậm, việc thực thi thủ tục hành chính chưa nghiêm; việc rà soát, sửa đổi, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính còn chưa được như yêu cầu; việc kiện toàn biên chế, cán bộ theo Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV còn gặp nhiều khó khăn; việc triển khai một số quy định mới trong lĩnh vực công chứng, chứng thực, xử lý vi phạm hành chính còn lúng túng; việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa đạt kết quả như mong muốn... Những hạn chế nêu trên cần nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá đúng nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan để kịp thời khắc phục.
2. Nhìn lại nhiệm kỳ 2011-2015
Đánh giá việc thực hiện công tác tư pháp nhiệm kỳ 2011-2015, có thể thấy rằng, đặt trong điều kiện chung của đất nước còn nhiều khó khăn, nền kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, nhưng dưới sự Lãnh đạo của Đảng, sự điều hành sát sao, kịp thời, quyết liệt, sáng tạo của Chính phủ, với những nỗ lực, quyết tâm cao của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, ngành Tư pháp đã tiến hành triển khai đồng bộ nhiều mặt công tác, bám sát ý kiến chỉ đạo của Chính phủ, toàn ngành Tư pháp đã có sự trưởng thành, gắn bó hơn với nhiệm vụ chung của đất nước, phối kết hợp tốt hơn, chủ động hơn với các Bộ, ngành, đặc biệt là cấp ủy, chính quyền địa phương, kết quả công tác đã có những đóng góp thiết thực vào thành tựu chung của đất nước và từng địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, tăng cường vị thế đối ngoại của đất nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, người dân. Có thể nói rằng, vị trí, vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước đã tiếp tục được khẳng định rõ nét hơn; vị thế Ngành từ Trung ương đến địa phương được củng cố và tăng cường vượt bậc. Khái quát một số kết quả chính như sau:
a) Đã tham mưu cho Chính phủ trong việc tổ chức tổng kết thi hành Hiến pháp 1992, tham gia tích cực trong xây dựng và chủ trì tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp mới - bản Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
b) Phát huy tốt vai trò là cơ quan tham mưu tin cậy của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa phương trong việc hoạch định chính sách, pháp luật; xây dựng và hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Việc hoàn thiện thể chế trong các lĩnh vực quản lý của Ngành đạt được nhiều kết quả, hầu hết các lĩnh vực đều có luật điều chỉnh.
c) Hệ thống cơ quan THADS tiếp tục được kiện toàn và ngày càng phát triển bền vững. Công tác phối hợp, nhất là phối hợp liên ngành trong công tác THADS được chú trọng và phát huy hiệu quả. Kết quả THADS cơ bản đạt và vượt các chỉ tiêu được Quốc hội giao. Thừa phát lại được mở rộng thí điểm và thành công, được Quốc hội ghi nhận, cho triển khai chính thức.
d) Công tác xây dựng Ngành tiếp tục được đẩy mạnh. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp ngày càng được mở rộng, nhất là ở các lĩnh vực mới, nhiều thử thách như kiểm soát thủ tục hành chính; quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính; theo dõi, đôn đốc việc ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh; đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, thi hành án hành chính... Công tác đào tạo pháp luật có những bước phát triển quan trọng, nhất là đã về đích sớm 02 năm trong việc thành lập mạng lưới các trường trung cấp luật, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực cho Ngành và xã hội; tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành và đang từng bước triển khai các Đề án xây dựng Trường Đại học luật Hà Nội thành trường trọng điểm; Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp.
e) Chủ trương xã hội hóa công tác bổ trợ tư pháp được triển khai quyết liệt, theo đúng tinh thần cải cách tư pháp và đạt nhiều kết quả nổi bật so với nhiệm kỳ trước. Việc phát triển các nghề tư pháp như luật sư, công chứng viên, đấu giá viên, quản tài viên và các tổ chức hành nghề trong các lĩnh vực này đạt nhiều kết quả, đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ pháp lý của người dân, doanh nghiệp. Công chứng Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên minh công chứng quốc tế. Thể chế trong các lĩnh vực này cũng dần được hoàn thiện.
f) Quản lý nhà nước đối với công tác hành chính tư pháp được tăng cường và từng bước được đổi mới theo hướng hiện đại hóa, đơn giản hóa thủ tục hành chính đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân. Việc Quốc hội thông qua Luật hộ tịch là một bước đột phá quan trọng, tạo tiền đề cho việc quản lý dân cư, quản lý xã hội trong giai đoạn mới, đồng thời bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
g) Quản lý nhà nước về PBGDPL và hòa giải ở cơ sở được chú trọng và tăng cường hơn; thể chế, chính sách về PBGDPL, hòa giải ở cơ sở được hoàn thiện, tạo cú hích cho sự chuyển biến về chất trong các lĩnh vực công tác này. Đặc biệt, kể từ năm 2013, Ngày Pháp luật Việt Nam đã được triển khai đồng bộ trên cả nước; thực sự trở thành sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của người dân.
h) Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật đạt được nhiều kết quả quan trọng. Bộ Tư pháp ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong bảo đảm yêu cầu pháp lý phục vụ hội nhập sâu rộng của đất nước; việc đại diện pháp lý cho Chính phủ giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế bước đầu đạt nhiều kết quả. Hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật được đẩy mạnh trên cả 3 phương diện (song phương, đa phương và đa phương khu vực), trong đó đã củng cố, nối lại và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ hợp tác truyền thống và mở rộng quan hệ hợp tác mới với các nước và các tổ chức quốc tế, phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những kết quả nổi bật, trong nhiệm kỳ 2011-2015, công tác tư pháp vẫn còn một số tồn tại, hạn chế; một số định hướng của nhiệm kỳ 2011-2015 chưa đạt được kết quả như mong muốn; thậm chí, có những hạn chế trong nhiều năm liền, kể cả từ nhiệm kỳ trước, nhưng chưa khắc phục hiệu quả, cụ thể là: Năng lực xây dựng và thực thi pháp luật chưa cao, hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, một số VBQPPL chưa phù hợp với thực tiễn, tính ổn định chưa cao, nhiều chính sách còn chồng chéo, tình trạng chậm ban hành VBQPPL, nhất là văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh còn phổ biến; hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn thấp, pháp luật chậm đi vào cuộc sống; thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, việc công bố, công khai TTHC vẫn còn chậm, việc thực thi TTHC chưa nghiêm, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp; tình trạng vi phạm trong công tác THADS còn nhiều; việc triển khai một số nhiệm vụ mới của Ngành (quản lý xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật) còn lúng túng, nhất là ở các địa phương; công tác hành chính tư pháp còn chậm được đổi mới; công tác nghiên cứu khoa học pháp lý chưa thực sự đi vào chiều sâu, việc xây dựng Chiến lược phát triển ngành Tư pháp còn chậm; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ngành chưa đạt kết quả như mong muốn.
Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, hạn chế trong nhiệm kỳ 2011-2015 nêu trên là: Về khách quan, khối lượng công việc, nhiệm vụ mới bổ sung cho Ngành tăng nhiều, mức độ phức tạp, yêu cầu chất lượng công việc ngày càng cao, trong khi đó tổ chức, biên chế, chất lượng nguồn nhân lực, kinh phí để triển khai chưa theo kịp yêu cầu công việc, đặc biệt là biên chế cho các cơ quan tư pháp địa phương, tổ chức pháp chế; Về chủ quan, sự quan tâm của một số Bộ, ngành và UBND các cấp đối với công tác tư pháp, pháp chế chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra; việc đề xuất kế hoạch công tác đối với một số nhiệm vụ, trong một số lĩnh vực chưa sát với thực tế; sự phối hợp giữa các Bộ, ngành với nhau, giữa Trung ương và địa phương còn nhiều hạn chế; công tác chỉ đạo, điều hành có lúc, có việc chưa chủ động; sự tham mưu của một số tổ chức pháp chế, Sở Tư pháp cho Lãnh đạo các Bộ, ngành và cấp ủy, chính quyền địa phương chưa kịp thời, đầy đủ, cá biệt có trường hợp chưa theo đúng trọng tâm, trọng điểm.
3. Bài học kinh nghiệm nhiệm kỳ 2011-2015
Thứ nhất, phải biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự quan tâm, ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, nhất là sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chủ động, tích cực trong thực hiện nhiệm vụ, kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo về những khó khăn, vướng mắc hoặc những vấn đề mới.
Thứ hai, xác định đúng công việc trọng tâm, trọng điểm, bám sát kế hoạch, nhiệm vụ chính trị của Chính phủ, Bộ, ngành và địa phương, nhất là các nhiệm vụ phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội; có giải pháp phù hợp, khả thi và tập trung nguồn lực để thực hiện.
Thứ ba, quan tâm xây dựng, hoàn thiện thể chế, nâng cao kiến thức kinh tế, xã hội, khắc phục tư duy pháp lý thuần tuý; chú trọng công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành theo kế hoạch; đặc biệt coi trọng công tác tổ chức, cán bộ, nhất là việc kiện toàn người đứng đầu đủ tâm, tầm và tài.
Thứ tư, sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, dám chịu trách nhiệm, đương đầu và vượt qua khó khăn; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, lắng nghe ý kiến phản ánh từ cơ sở, từ xã hội; kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn triển khai hoạt động tư pháp.
Thứ năm, chú trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra; thực hiện cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin; đầu tư nhân lực có chất lượng cao; quy chế hóa cơ chế phối hợp với các Ban, Bộ, ngành Trung ương, cơ quan tại địa phương; chủ động thiết lập, thường xuyên duy trì, sử dụng hiệu quả quan hệ phối hợp công tác trong và ngoài Ngành.
ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TƯ PHÁP NHIỆM KỲ 2016-2020; NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CÔNG TÁC NĂM 2016
I. ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TƯ PHÁP NHIỆM KỲ 2016-2020
1. Tiếp tục phát huy vai trò của Bộ, ngành Tư pháp trong việc tham mưu giúp Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ nội dung, tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII; các quy định của Hiến pháp năm 2013 với trọng tâm là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Kết luận của Bộ Chính trị về tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược này và Luật ban hành VBQPPL năm 2015, phấn đấu đến năm 2020, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ thấp, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước. Nghiên cứu, đề xuất bổ sung, phát triển Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với tình hình mới. Chủ động xây dựng, hoàn thiện thể chế về tổ chức và hoạt động của Ngành.
2. Tham mưu cho Chính phủ, chính quyền các cấp thực hiện bước chuyển hướng chiến lược sang giai đoạn hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm gắn kết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Tổ chức thi hành hiệu quả Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, bảo đảm đồng bộ với việc triển khai các bộ luật, luật về tố tụng để đưa các chính sách mới mang tính cải cách về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường đi vào cuộc sống. Phấn đấu giảm cơ bản và tiến tới chấm dứt tình trạng trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh; thực hiện pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật. Tăng cường công tác tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả các công cụ phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, hỗ trợ và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức tiếp cận, sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, coi đây là khâu đầu tiên và có vai trò quan trọng trong tổ chức thi hành pháp luật. Từng bước hoàn thiện các quy định kiểm soát hành vi thực thi công vụ, nhất là với những người có vị trí nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp; tập trung hoàn thiện, trình Quốc hội Luật ban hành quyết định hành chính. Tích cực tham gia nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng cơ chế bảo vệ hiến pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.
3. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, hành chính, tạo chuyển biến cơ bản, bền vững, thực chất công tác THADS, hành chính; phấn đấu đạt hoặc vượt các chỉ tiêu được giao; hàng năm giảm ít nhất 5% lượng án tồn đọng. Tập trung giải quyết các vụ việc trọng điểm, phức tạp, kéo dài, giải quyết đúng thời hạn các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, khắc phục cơ bản những tồn tại, hạn chế, nhất là đối với công tác phân loại án, công tác thống kê THADS. Tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, nhất là cán bộ quản lý đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan THADS, nhất là kho vật chứng. Thực hiện tốt công tác phối hợp liên ngành, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương trong THADS.
4. Nâng cao chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp như công chứng, bán đấu giá tài sản, giám định tư pháp, trợ giúp pháp lý, thừa phát lại, quản lý, thanh lý tài sản, đồng thời triển khai thực hiện tốt các chiến lược, quy hoạch, đề án trong các lĩnh vực này, bảo đảm sự phát triển bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, bảo đảm sự vận hành thông suốt của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đẩy mạnh việc xã hội hóa các lĩnh vực này theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp, phấn đấu đến năm 2020 hình thành được mạng lưới dịch vụ pháp lý rộng khắp, thuận tiện, tin cậy cho người dân, doanh nghiệp. Thành lập Hội công chứng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và hoàn thành các thủ tục thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc. Tăng cường quản lý nhà nước kết hợp với phát huy vai trò tự quản của các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
5. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp và pháp chế, trong đó tập trung vào những lĩnh vực như hộ tịch, chứng thực, lý lịch tư pháp, bồi thường nhà nước, giao dịch bảo đảm, xử lý vi phạm hành chính, kiểm soát TTHC; đưa các lĩnh vực công tác tư pháp thực sự đến gần với người dân, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Từng bước hiện đại hóa các lĩnh vực công tác này với trọng tâm là xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử gắn với việc tổ chức thực hiện Đề án Tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020. Nghiên cứu xây dựng Luật đăng ký tài sản, phấn đấu đến năm 2020 hình thành hệ thống đăng ký tài sản công khai, minh bạch, dễ tiếp cận.
6. Phát huy vai trò, hiệu quả tham gia của ngành Tư pháp trong việc xử lý các vấn đề pháp lý phát sinh trong hội nhập quốc tế, đàm phán, ký kết, thực hiện điều ước quốc tế, nhất là hiệp định TPP, Việt Nam – EU, Việt Nam – Liên minh kinh tế Á - Âu cũng như quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia phù hợp với luật pháp quốc tế. Tiếp tục triển khai, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tranh chấp đầu tư, thương mại quốc tế; thực hiện có hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định thương mại TPP và Việt Nam - EU. Nghiên cứu, đề xuất vận dụng các quy định linh hoạt trong các cam kết quốc tế nhằm bảo đảm hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của Việt Nam. Chủ động, tích cực thực hiện hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước phục vụ hiệu quả cho quá trình cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền; rà soát, đánh giá việc thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã ký.
7. Đổi mới tổ chức bộ máy và tiếp tục kiện toàn nhân lực ngành Tư pháp phù hợp với Chiến lược phát triển Ngành đến năm 2035 và Đề án vị trí việc làm được phê duyệt, bảo đảm sự gắn kết giữa xây dựng pháp luật với thực thi pháp luật, có sự phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương, phát triển một số ngành dọc (như trợ giúp pháp lý, hộ tịch), phấn đấu đến năm 2020 khắc phục cơ bản mâu thuẫn giữa việc tăng cường chức năng, nhiệm vụ với số lượng, đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp và pháp luật. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ tư pháp cơ sở, bảo đảm am hiểu pháp luật, tinh thông về kỹ năng, nghiệp vụ. Phấn đấu hoàn thành việc xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật vào năm 2020; từng bước mở rộng quy mô đào tạo cử nhân luật với nguồn tuyển sinh là người đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác. Phấn đấu hoàn thành việc xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp vào năm 2020 và thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo chung nguồn 3 chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư.
8. Đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với tinh giản biên chế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ có hiệu quả hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp, pháp chế, thi hành án dân sự, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 đối với những lĩnh vực quản lý của Bộ, Ngành theo tinh thần, nội dung Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra gắn với phòng chống vi phạm, tiêu cực, nhũng nhiễu trong toàn Ngành; khắc phục triệt để thói quen tùy tiện, bệnh quan liêu, tham nhũng, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ; đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, tuân thủ kỷ cương, kỷ luật công vụ, sống và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2016
1. Nhiệm vụ công tác tư pháp năm 2016
1.1. Tổ chức học tập, quán triệt và xây dựng Chương trình, Kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2016-2020, trong đó chú trọng vào các vấn đề liên quan đến cải cách tư pháp, cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật.
1.2. Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
- Xây dựng trình Quốc hội thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Tập trung phối hợp chỉnh lý, hoàn thiện các dự án Luật tiếp cận thông tin, Luật đấu giá tài sản; chủ trì xây dựng và hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng, các dự án Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi), Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước (sửa đổi), Luật chứng thực, Luật lý lịch tư pháp (sửa đổi). Kịp thời xây dựng, trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết có hiệu lực trong các năm 2016, 2017 như: Luật ban hành VBQPPL, Bộ luật dân sự (sửa đổi), Nghị quyết của Quốc hội về Thừa phát lại..., đồng thời tăng cường đôn đốc các Bộ, ngành việc xây dựng văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh.
- Tổ chức thi hành hiệu quả Luật ban hành VBQPPL năm 2015; chú trọng những điểm mới của Luật, nhất là quy định đột phá trong khâu thẩm định, phân tích chính sách pháp luật để bảo đảm tính khả thi của dự án, dự thảo VBQPPL. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định VBQPPL, ưu tiên bố trí đủ nhân lực, nguồn lực đảm bảo thẩm định đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, liên quan đến hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Chủ động phát huy công cụ công tác kiểm tra, xử lý văn bản theo thẩm quyền, nhất là các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh và kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin. Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc và theo dõi việc xử lý các văn bản trái pháp luật của các Bộ, ngành và địa phương.
- Tổ chức thực hiện rà soát thường xuyên VBQPPL và theo một số chuyên đề, lĩnh vực phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, trọng tâm là các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp mà Quốc hội vừa thông qua luật (bộ luật) trong năm 2015 và dự kiến thông qua luật (bộ luật) trong năm 2016. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Pháp lệnh hợp nhất VBQPPL và Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL; đồng thời, nghiên cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các pháp lệnh này, bảo đảm phù hợp với Luật ban hành VBQPPL và phù hợp với thực tiễn triển khai các pháp lệnh.
1.3. Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính, theo dõi thi hành pháp luật
- Ban hành đầy đủ, kịp thời sửa đổi, bổ sung các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, đảm bảo thống nhất, khả thi; kịp thời rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (rút ngắn thời hạn, đơn giản hóa thủ tục lập hồ sơ). Tập trung theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện thống nhất, đồng bộ các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhất là đối với đối tượng là người chưa thành niên; tích cực tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; từng bước triển khai thực hiện đầy đủ, chất lượng các nội dung của nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính ở các Bộ, ngành, địa phương trên toàn quốc.
- Hoàn thiện thể chế về công tác theo dõi thi hành pháp luật, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, toàn diện, nâng cao hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật. Xây dựng và triển khai Kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật năm 2016 đáp ứng yêu cầu quản lý, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng địa phương. Đẩy mạnh hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật nói chung và công tác thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm liên ngành theo hướng lựa chọn lĩnh vực phức tạp, có nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và cuộc sống của người dân, đang là điểm nóng trong dư luận xã hội, được các đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm.
1.4. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính
- Đẩy mạnh đơn giản hóa TTHC, cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, văn hóa, xã hội, trong đó ưu tiên các TTHC phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc quy định TTHC ngay từ khâu dự thảo VBQPPL, góp phần nâng cao chất lượng thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Thực hiện nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cải cách TTHC theo đúng Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
- Tăng cường công khai, minh bạch TTHC, trong đó chú trọng việc công bố TTHC thuộc phạm vi quản lý hoặc thẩm quyền giải quyết của các Bộ, ngành, địa phương.
- Triển khai thiết lập và đưa vào vận hành Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết TTHC tại các cấp chính quyền. Tiếp tục tổ chức thực hiện có kết quả Đề án Tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020. Xây dựng Đề án đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Nghiên cứu, nhân rộng mô hình hay, cách làm mới trong thực hiện cải cách TTHC trên phạm vi toàn quốc.
- Tập trung cải cách TTHC trong nội bộ cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập, dịch vụ công và các thủ tục hành chính liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; triển khai thực hiện đầy đủ, đồng bộ và có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
1.5. Công tác thi hành án dân sự
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS, chú trọng xây dựng đủ các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật này và bảo đảm đồng bộ với các bộ luật, luật mới được Quốc hội thông qua liên quan đến công tác THADS.
- Tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS, đặc biệt là chỉ tiêu thi hành xong về việc, về tiền và các chỉ tiêu khác được Quốc hội giao theo Nghị quyết của Quốc hội về công tác tư pháp. Thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành các vụ án lớn, liên quan đến thu hồi tài sản cho Nhà nước, đặc biệt là trong các vụ án tham nhũng. Nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hành chính và triển khai thực hiện tốt Luật tố tụng hành chính (sửa đổi).
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức làm công tác THADS đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị, Nghị định số 108/2015/NĐ-CP về tinh giản biên chế đội ngũ cán bộ, công chức; xây dựng và triển khai thực hiện Đề án về đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức các cơ quan THADS giai đoạn 2017-2020 và Đề án rà soát, đào tạo đội ngũ công chức trẻ có năng lực, trình độ, tạo nguồn bổ nhiệm Phó Cục trưởng Cục THADS.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là tại các cơ quan THADS địa phương, hạn chế xảy ra các trường hợp khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp. Chủ động xử lý kịp thời, đúng pháp luật các vụ việc khiếu nại, tố cáo, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài.
- Tổ chức thực hiện các đề án đã được phê duyệt về xây dựng trụ sở, kho vật chứng và đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan THADS, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng kho vật chứng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành và trong công tác chuyên môn nghiệp vụ. Tổ chức thực hiện tốt Kế hoạch hoạt động hướng tới tổ chức kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống THADS (19/7/1946 - 19/7/2016).
- Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội. Nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng Luật về thừa phát lại.
1.6. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hoà giải ở cơ sở
- Sửa đổi, bổ sung Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở và tổ chức triển khai thực hiện. Tăng cường phối hợp với các ngành, đoàn thể trong việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch phối hợp PBGDPL đã ký kết. Tiếp tục rà soát, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật các cấp. Tổ chức triển khai hiệu quả Ngày Pháp luật năm 2016.
- Tập trung phổ biến các luật mới được Quốc hội ban hành, nhất là các luật về tổ chức bộ máy như Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương; Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; các luật, bộ luật nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công dân như Bộ luật dân sự (sửa đổi), Bộ luật hình sự (sửa đổi); các luật, bộ luật về tố tụng...; tổ chức giới thiệu, phổ biến sâu rộng chủ trương, chính sách, các quy định của pháp luật mà dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng, cũng như các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Nghiên cứu, đổi mới cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phương tiện truyền thông, mạng xã hội vào công tác này.
- Đẩy mạnh triển khai thực hiện Luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tổ chức tốt Hội thi hòa giải viên giỏi toàn quốc lần thứ III. Đề xuất sửa đổi, bổ sung ban hành các văn bản mới điều chỉnh về công tác xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước tại cơ sở.
1.7. Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, nuôi con nuôi, lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, bồi thường nhà nước
- Tập trung triển khai thực hiện Luật hộ tịch, các văn bản quy định chi tiết thi hành và thí điểm trên diện rộng phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch theo quy định của Luật. Tiếp tục triển khai các đề án, kế hoạch liên quan đến giải quyết vấn đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước Việt Nam – Lào; vấn đề quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tùy thân cho người di cư tự do từ Campuchia về nước và người gốc Việt ở Campuchia; vấn đề quốc tịch, hộ tịch của trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành về hộ tịch, chứng thực tại các địa phương. Xây dựng dự án Luật chứng thực bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng.
- Tổng kết 5 năm thi hành Luật nuôi con nuôi và 4 năm triển khai thực hiện Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Triển khai thực hiện tốt Quy chế phối hợp liên ngành giữa Bộ Tư pháp và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội trong công tác giải quyết việc nuôi con nuôi và Đề án hỗ trợ trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi nước ngoài tìm về cội nguồn.
- Tổng kết 5 năm thi hành Luật lý lịch tư pháp và đề xuất hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực này. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến, nghiên cứu, đề xuất việc thực hiện chính thức trên phạm vi toàn quốc. Đẩy mạnh việc xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, bảo đảm kết nối, chia sẻ thông tin giữa cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác liên quan.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm phù hợp với Bộ luật dân sự (sửa đổi). Kịp thời giải quyết những khó khăn trong thực hiện thủ tục thế chấp và giải chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai và các quyền tài sản có liên quan. Xây dựng và triển khai thực hiện Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản. Triển khai áp dụng đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ công cấp độ 4. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để xây dựng dự án Luật đăng ký tài sản và Đề án thí điểm đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất.
- Tổ chức tổng kết 05 năm thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, làm cơ sở cho việc xây dựng dự án Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) đã được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Chỉ đạo giải quyết các vụ việc bồi thường còn tồn đọng, đặc biệt là những vụ việc được dư luận quan tâm. Tăng cường công tác hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoạt động giải quyết bồi thường, chi trả tiền bồi thường và xem xét, thực hiện trách nhiệm hoàn trả; kịp thời phát hiện các sai phạm để chấn chỉnh, xử lý.
1.8. Công tác bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư, Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 và chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để thực hiện các quy định của các luật, bộ luật tố tụng có liên quan đến luật sư và hành nghề luật sư; chú trọng công tác phát triển đội ngũ luật sư giỏi, am hiểu pháp luật quốc tế, thành thạo ngoại ngữ, có thể hoạt động trên trường quốc tế để bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và công dân Việt Nam trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế. Phối hợp với Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền kiện toàn Đảng đoàn liên đoàn luật sư Việt Nam và nhân sự Lãnh đạo Liên đoàn nhiệm kỳ II.
- Triển khai có hiệu quả Luật công chứng và Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020; tổ chức thực hiện tốt việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng, thành lập Hội công chứng tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và hoàn thành các thủ tục thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc. Chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành trong tổ chức và hoạt động hành nghề công chứng.
- Tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp; tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong triển khai Luật giám định tư pháp và văn bản quy định chi tiết thi hành, nhất là những vấn đề còn tồn tại trong việc giám định phục vụ giải quyết án kinh tế, tham nhũng.
- Hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện Nghị định về hòa giải thương mại; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện Luật đấu giá tài sản; tổ chức thực hiện tốt Nghị định số 22/2015/NĐ-CP về quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản.
- Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý; tăng cường kiểm tra, theo dõi, giám sát chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; tập trung xây dựng Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi) bảo đảm chất lượng, tiến độ.
1.9. Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
- Nâng cao chất lượng công tác thẩm định điều ước quốc tế, góp ý thỏa thuận quốc tế; chuẩn hóa công tác cấp ý kiến pháp lý theo quy định của Nghị định số 51/2015/NĐ-CP. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả vai trò làm đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết các vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của Nhà nước. Phát huy hơn nữa vai trò đầu mối thực thi và hoàn thiện báo cáo quốc gia về thực hiện Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Tiếp tục thực hiện hiệu quả Luật tương trợ tư pháp; đẩy mạnh việc rà soát các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký kết với các nước để đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả công tác này. Thực hiện đánh giá tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đối với hệ thống pháp luật Việt Nam và đề xuất phương án hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện hiệu quả các hiệp định này.
- Tiếp tục triển khai thi hành hiệu quả Nghị định số 113/2014/NĐ-CP về quản lý hợp tác quốc tế về pháp luật, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật. Đẩy mạnh có trọng điểm các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật trên cả ba bình diện toàn cầu, khu vực và song phương theo các định hướng đã được xác định tại Đề án định hướng tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật giai đoạn 2013 – 2016. Chú trọng triển khai các nhiệm vụ hợp tác về pháp luật với các nước ASEAN trong bối cảnh hình thành cộng đồng ASEAN; hoàn thành các thủ tục gia nhập các thiết chế quốc tế đa phương về hợp tác pháp luật và tư pháp như Tổ chức quốc tế về phát triển luật (IDLO), Tổ chức tư vấn pháp luật Á - Phi (AALCO), Tổ chức nhất thể hóa pháp luật tư (UNIDROIT).
1.10. Công tác xây dựng Ngành, quản lý nhà nước về pháp chế; đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu khoa học pháp lý
- Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ Đề án tổng thể kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân lực ngành Tư pháp và danh mục mạng lưới dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp; ban hành Thông tư quy định tiêu chuẩn Giám đốc Sở Tư pháp. Rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương theo các nội dung sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức chính quyền địa phương, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sửa đổi Nghị định số 22/2013/NĐ-CP.
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác cán bộ, nhất là việc quy hoạch, bổ nhiệm lãnh đạo cấp Vụ, cấp Phòng các đơn vị thuộc Bộ. Đẩy mạnh công tác luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác đối với các bộ, công chức, viên chức các đơn vị thuộc Bộ và giữa Bộ với các địa phương. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện Đề án vị trí việc làm và Đề án tinh giản biên chế của Bộ Tư pháp giai đoạn 2015-2021. Kiểm tra công tác tổ chức cán bộ của các đơn vị thuộc Bộ và của địa phương theo phân cấp.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm về đào tạo pháp luật và Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp. Chú trọng việc đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ làm công tác pháp luật, tư pháp, nhất là cán bộ tư pháp cơ sở bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của Luật hộ tịch. Ban hành và thực hiện tốt Quy chế phối hợp trong việc đưa cán bộ, giảng viên và học viên của các cơ sở đào tạo thuộc Bộ đi thực tế tại UBND cấp xã, Phòng Tư pháp cấp huyện và cơ quan THADS.
- Tăng cường theo dõi, đôn đốc việc kiện toàn tổ chức, cán bộ pháp chế tại các Bộ, ngành, địa phương. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế.
- Triển khai thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị sau tổng kết Nghị quyết số 48 và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và nghiên cứu, đề xuất việc phát triển các nghị quyết này bảo đảm phù hợp với tình hình mới. Hoàn thiện Chiến lược phát triển ngành Tư pháp đến năm 2035. Bám sát thực tiễn, các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành để tiếp tục nghiên cứu và hoàn thành các nhiệm vụ khoa học phục vụ cho việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển Ngành, tăng cường năng lực quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp; đa dạng hóa các hoạt động nghiên cứu khoa học dưới hình thức tọa đàm, sinh hoạt khoa học và các hình thức phù hợp khác.
1.11. Công tác kế hoạch, thống kê, ngân sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản; thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng xây dựng các kế hoạch công tác của Bộ, Ngành. Ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 20/2013/TT-BTP ngày 03/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung về công tác thống kê của ngành Tư pháp và triển khai xây dựng Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành Tư pháp.
- Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý ngân sách - tài sản và đầu tư xây dựng cơ bản, bảo đảm đáp ứng tốt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành, đồng thời bảo đảm triệt để tiết kiệm, đúng chế độ quy định. Xây dựng phương án tiết kiệm, cắt giảm tối đa các khoản kinh phí hội nghị, hội thảo, các hoạt động phô trương, lãng phí không cần thiết; cân đối để bố trí nguồn tăng lương theo Nghị quyết của Quốc hội. Tăng cường công tác kiểm tra trên các lĩnh vực quản lý ngân sách - tài sản và xây dựng cơ bản. Phát huy hiệu quả hoạt động của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng của Bộ.
- Tăng cường hơn nữa các hoạt động thanh tra chuyên ngành, nhất là trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp trên cơ sở phát huy vai trò của Thanh tra các Sở Tư pháp, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động kiểm tra sau thanh tra. Chú trọng công tác thanh tra trách nhiệm thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại các đơn vị. Thực hiện tốt Luật tiếp công dân và các văn bản hướng dẫn thi hành; tăng cường tuyên truyền, quán triệt Luật thanh tra, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật phòng chống tham nhũng và các văn bản pháp luật về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng.
1.12. Công tác thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản; ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính; thi đua khen thưởng
- Tiếp tục đổi mới về nội dung, hình thức các ấn phẩm sách, báo, tạp chí, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành và nhu cầu của bạn đọc với mục tiêu nâng cao hiệu quả thông tin, tuyên truyền, gắn với các sự kiện lớn của đất nước, của Bộ, Ngành; đồng thời, tăng cường phát triển các ấn phẩm phụ để phát triển theo hướng phân khúc thị trường bạn đọc. Xây dựng và thực hiện Đề án Chung tay xóa nghèo pháp luật, chuyên đề tuyên truyền pháp luật về biên giới, biển đảo bằng nguồn kinh phí xã hội hóa.
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, điểm tin báo chí phục vụ hoạt động chỉ đạo điều hành; tổ chức tốt các buổi họp báo định kỳ, đột xuất để thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động của Bộ, Ngành.
- Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử. Nâng cấp, phát triển Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật; Thiết lập hệ thống thông tin tiếp nhận xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền và Thí điểm thiết lập Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch. Triển khai thực hiện việc cung cấp dịch vụ công mức độ 4 trong đăng ký giao dịch bảo đảm và mức độ 3 trong cấp phiếu lý lịch tư pháp. Nâng cấp, phát triển Cổng thông tin điện tử Thi hành án dân sự.
- Ban hành mới các quy trình ISO trong hoạt động của cơ quan Bộ Tư pháp nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính Nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy chế nội bộ liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng như Quy chế về tổ chức và hoạt động các Cụm, Khu vực thi đua thuộc ngành Tư pháp; Quy chế xét tặng kỷ niệm chương Vì sự nghiệp tư pháp...; thực hiện nghiêm túc việc chấm điểm thi đua và xếp hạng Sở Tư pháp, Cục THADS và đề xuất việc chấm điểm thi đua và xếp hạng các đơn vị thuộc Bộ. Đẩy mạnh các phong trào thi đua trong toàn Ngành.
2. Giải pháp chủ yếu
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác tư pháp năm 2016, ngành Tư pháp xác định một số giải pháp chủ yếu sau đây:
2.1. Xây dựng các chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, có tính khả thi cao, bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương, chương trình công tác của Ngành, ưu tiên thực hiện những nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 theo Nghị quyết số 98/2015/QH13 của Quốc hội và Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ; các nội dung cần thể chế hóa trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
2.2. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và giải quyết công việc chuyên môn, nghiệp vụ; tăng cường sử dụng hệ thống giao ban điện tử đa phương tiện trong tổ chức các cuộc họp, hội thảo, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.
2.3. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, cải tiến lề lối làm việc; tăng cường hiệu quả các cuộc họp, giảm số lượng cuộc họp; khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập, xử lý nghiêm các biểu hiện tiêu cực, gây phiền hà, sách nhiễu trong khi giải quyết yêu cầu của người dân, nhất là trong các lĩnh vực THADS, hộ tịch, lý lịch tư pháp tại địa phương.
2.4. Đẩy mạnh việc kiện toàn bộ máy, nhân lực, tập trung nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức, viên chức của Ngành, nhất là bộ máy, công chức làm công tác pháp chế của các Bộ, cơ quan, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã và công chức tư pháp ở những lĩnh vực mới quản lý của Ngành, bảo đảm phát huy hiệu quả công tác tư pháp trong thời gian tới nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
2.5. Tăng cường công tác phối hợp với Bộ, cơ quan và cấp ủy, chính quyền các cấp trong chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp từ Trung ương đến địa phương; kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để có giải pháp tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
2.6. Phát huy hiệu quả các công cụ quản lý kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và thi đua – khen thưởng, bảo đảm linh hoạt, kịp thời. Chỉ đạo tổ chức tốt các phòng trào thi đua – khen thưởng bảo đảm gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của từng cơ quan, đơn vị.
III. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2016
1. Tập trung phổ biến, quán triệt, triển khai Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nhất là chủ trương, chính sách liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành, bảo đảm thể chế hóa đầy đủ nội dung, tinh thần của Nghị quyết. Thực hiện tốt chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, trong đó tập trung xây dựng các dự án Luật để tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân như Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước (sửa đổi), Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi), Luật chứng thực và Luật lý lịch tư pháp (sửa đổi); phối hợp chỉnh lý, hoàn thiện các dự án Luật tiếp cận thông tin, Luật đấu giá tài sản, Luật ban hành quyết định hành chính. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác góp ý, thẩm định VBQPPL, gắn kết với công tác kiểm soát thủ tục hành chính, kiểm tra VBQPPL và theo dõi thi hành pháp luật, trong đó chú trọng việc đánh giá tác động của các chính sách, đảm bảo kiểm soát chặt chẽ tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của VBQPPL. Tăng cường theo dõi, đôn đốc, giám sát việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh.
2. Triển khai thi hành kịp thời, có hiệu quả các luật có hiệu lực trong năm 2016; tập trung quyết liệt, bảo đảm thực hiện tốt những quy định mới của Luật ban hành VBQPPL. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện tốt Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật hình sự 2015 và Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật này bảo đảm đồng bộ với việc triển khai thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Luật tố tụng hành chính 2015; thực hiện các biện pháp thiết thực, cụ thể nhằm đưa các chính sách mới mang tính cải cách trong các bộ luật này, nhất là các quy định về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường đi vào cuộc sống. Nghiên cứu xây dựng dự án Luật đăng ký tài sản.
3. Đổi mới phương thức và tăng cường hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là các bộ luật, luật, nghị quyết mới được Quốc hội thông qua. Chủ động thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách mới, các vấn đề dư luận quan tâm trong quá trình xây dựng dự thảo VBQPPL; kịp thời cập nhật văn bản quy phạm pháp luật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, đảm bảo cung cấp thông tin pháp luật công khai, nhanh chóng, kịp thời, tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức tiếp cận, khai thác, sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình. Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình, đề án phổ biến pháp luật cho các đối tượng đồng bào ở vùng sâu, vùng xa gắn với việc thực hiện các chương trình giảm nghèo và việc thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức tốt Hội thi hòa giải viên giỏi toàn quốc lần thứ III.
4. Triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Luật hộ tịch, Luật căn cước công dân theo hướng hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác đăng ký, thống kê hộ tịch, trong đó tập trung triển khai thực hiện thí điểm đăng ký khai sinh và cấp số định danh cá nhân, gắn với việc xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân, tiến tới xây dựng, hoàn thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để thực hiện đồng bộ trên phạm vi toàn quốc.
5. Nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự, hành chính, bảo đảm sự phát triển bền vững, phấn đấu đạt hoặc vượt các chỉ tiêu được giao trong Nghị quyết của Quốc hội về công tác tư pháp, trong đó tập trung giảm lượng án tồn đọng xuống dưới 200.000 vụ việc. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đổi mới, linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành, đảm bảo thông suốt từ Trung ương tới địa phương; tăng cường hơn nữa công tác phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh, đảm bảo tiến độ, chất lượng.
6. Tập trung triển khai hiệu quả hơn nữa Luật xử lý vi phạm hành chính; tiến hành rà soát các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với Bộ luật hình sự (sửa đổi), đồng thời, tổng hợp kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi để đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 77/2014/QH13 của Quốc hội liên quan đến việc đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc; tập trung theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện thống nhất, đồng bộ các quy định của pháp luật liên quan đến các biện pháp xử lý hành chính. Xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Tăng cường công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật gắn với kiểm tra VBQPPL và KSTTHC, trong đó tập trung vào lĩnh vực nhà ở xã hội, người có công.
7. Đổi mới mạnh mẽ việc giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức theo hướng tập trung, trực tiếp giải quyết công việc, có sự giám sát chặt chẽ của cấp có thẩm quyền, sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan; thực hiện đánh giá mức độ hài lòng của người dân đối với cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính. Thực hiện việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức qua dịch vụ bưu điện để giảm thiểu tiêu cực, nhũng nhiễu, tạo thuận lợi, tiết kiệm chi phí và giảm thời gian đi lại cho người dân. Tiếp tục triển khai Kế hoạch đơn giản hóa TTHC trọng tâm năm 2015 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 08/QĐ-TTg ngày 06/01/2015) và các nội dung theo chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên quan đến TTHC trong các lĩnh vực thuế, hải quan, đầu tư, đất đai, xây dựng, tiếp cận điện năng, an sinh xã hội. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng, hoàn thiện Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện liên thông các thủ tục công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thuế.
8. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, trong đó tập trung thực hiện việc chuyển đổi mô hình hoạt động các Phòng công chứng, Văn phòng công chứng theo quy định của Luật công chứng; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội chỉnh lý, hoàn thiện, sớm trình Quốc hội thông qua dự án Luật đấu giá tài sản và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức thực hiện tốt Luật này sau khi Quốc hội thông qua. Phối hợp với Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong việc kiện toàn chức danh Lãnh đạo Liên đoàn, đảm bảo hoạt động của Liên đoàn ngày càng hiệu quả, ổn định. Tổ chức thực hiện thống nhất, đồng bộ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý trên phạm vi cả nước. Tổ chức triển khai hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện chế định thừa phát lại tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; nghiên cứu đề xuất việc xây dựng Luật Thừa phát lại.
9. Xử lý kịp thời các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế, đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, trong đó khẩn trương rà soát, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu (EVFTA) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tiếp tục triển khai các giải pháp nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và cơ quan nhà nước, các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại, nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU. Tăng cường các hoạt động hợp tác đa phương trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật; nghiên cứu xác định nhu cầu hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, trong đó ưu tiên các hoạt động hợp tác với các nước Lào, Campuchia.
10. Chuẩn bị và thực hiện tốt việc chuyển giao cán bộ lãnh đạo của các cơ quan tư pháp, pháp chế sau Đại hội Đảng XII và bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đảm bảo tính ổn định, liên tục trong tổ chức và công việc. Nâng cao hơn nữa kỷ cương, kỷ luật công vụ trong toàn Ngành; tập trung kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm cán bộ, công chức, các tổ chức hành nghề tư pháp nhũng nhiễu, gây phiền hà, vi phạm pháp luật. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp và pháp luật, nhất là cán bộ tư pháp cấp huyện và cán bộ, công chức làm công tác hộ tịch, đảm bảo đáp ứng yêu cầu công việc được giao. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan chỉnh lý, hoàn thiện Pháp lệnh đào tạo các chức danh tư pháp. Triển khai có kết quả Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật và Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp.
11. Từng bước hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin gắn với cải tiến chế độ báo cáo, thống kê trong các lĩnh vực quản lý của Bộ; đảm bảo hết năm 2016, 100% các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến ở mức độ 3, tiến tới thực hiện việc tiếp nhận và trả kết quả trực tuyến hoặc qua đường bưu điện (dịch vụ công trực tuyến mức độ 4) trong các lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp, quốc tịch theo tinh thần, nội dung Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử.
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh chỉ đạo Tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Phần thứ hai của Báo cáo này, trong đó bám sát các định hướng công tác nhiệm kỳ 2016-2020, nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2016, đồng thời căn cứ vào tình hình cụ thể của Bộ, ngành, địa phương mình để đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, sát thực, trình Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt ngay trong tháng 01/2016 để tổ chức thực hiện.
- Chỉ đạo thực hiện bảo đảm tiến độ, chất lượng các chương trình, kế hoạch đã đề ra, báo cáo kết quả thực hiện với Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
2. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, Giám đốc Sở Tư pháp, Cục trưởng Cục THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nêu trên, trong đó tập trung hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành. Tổng Cục trưởng Tổng Cục THADS chỉ đạo các cơ quan THADS triển khai tốt các nhiệm vụ được giao./.
Nơi nhận: |
KT.BỘ
TRƯỞNG |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.