BỘ THƯƠNG MẠI | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 4289 TM/ĐặC BIệT | Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm 2002 |
BÁO CÁO KẾT QUẢ PHIÊN HỌP NHÓM ĐÀM PHÁN THƯƠNG MẠI ASEAN (TNG) LẦN THỨ 7 VÀ CUỘC HỌP CỦA UỶ BAN ĐÀM PHÁN THƯƠNG MẠI ASEAN-TRUNG QUỐC (TNC) LẦN THỨ 6
Kính gửi: Thủ tướng Chính phủ
Để hoàn thiện các nội dung Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc chuẩn bị cho việc ký kết giữa nguyên thủ các nước ASEAN và Trung Quốc dự kiến ngày 4/11/2002 tại Phnôm Pênh, Campuchia, ASEAN và Trung Quốc tiếp túc quá trình thảo luận trong khuôn khổ Uỷ Ban đàm phán thương mại ASEAN - Trung Quốc lần thứ 6 (TNC-6) từ ngày 15 đến 16/10/2002 tại Singapore. Trước đó, ngày 14/10/2002, các nước ASEAN cũng nhóm họp trong khuôn khổ Nhóm đàm phán thương mại ASEAN lần thứ 7 (TNG7). Đoàn đàm phán Việt Nam tham dự các cuộc họp nói trên có đại diện của các cơ quan: Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư do Bộ Thương mại làm trưởng đoàn.
Tại phiên họp lần này, về cơ bản, ta vẫn giữ được mục tiêu đàn phán của Việt Nam phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và đóng góp ý kiến của các Bộ, ngành hữu quan. Những vấn đề phát sinh chủ yếu xuất phát từ những bất đồng giữa ASEAN và Trung Quốc như đã nêu chi tiết tại Tờ trình Thủ tướng Chính phủ số 289/TM-ĐB của Bộ Thương mại ngày 10/10/2002 về việc ký kết Hiệp định khung. Bên cạnh đó, cũng có một số vấn đề mới được cả hai bên đưa ra trong quá trình đàm phán khá nhiều bất đồng. Bộ Thương mại xin báo cáo cụ thể như sau:
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
+ Thời điểm hoàn thành cắt giảm thuế trong khuôn khổ ACFTA:
Phía Trung Quốc đề nghị Việt Nam xem xét rút ngắn thời gian hoàn thành cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ ACFTA chậm hơn ASEAN 6 và Trung Quốc từ 5 năm xuống còn 3 năm (tức là thời điểm hoàn thành sẽ là 2013 so với 2015 trước đây). Phía ta đã nêu rõ, thời hạn 2015 đã được các Bộ trưởng nhất trí tại Hội nghị AEM-MOFTEC tháng 9/2002 tại Brunei. Phía Bạn đã đồng ý và không tiếp tục đề nghị Việt Nam xem xét thêm.
+ Vấn đề về ràng buộc thuế suất ban đầu:
Trước đây, các nước ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí thuế suất ban đầu thực hiện cắt giảm là thuế suất áp dụng ở thời điểm 1/1/2003. Tuy nhiên, sau khi đã thảo luận với đại diện của Bộ Tài chính, Đoàn đàm phán thấy rằng, hiện nay biểu thuế xuất nhập khẩu của nước ta còn có thể thay đổi trong thời gian tới. Ví dụ, trong khuôn khổ ASEAN, ta đã cam kết hoàn thành biểu thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) trước 1/7/2003. Vì vậy, ta đã vận động bạn nhất trí với thời điểm ràng buộc thuế suất ban đầu để thực hiện cắt giảm thuế là 1/7/2003.
+ Bổ sung nội dung hợp tác kinh tế trong khuôn khổ Chương trình Thu hoạch sớm:
Theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản và Bộ Khoa học và Công nghệ, ta đã yêu cầu bạn bổ sung hai nội dung vào Chương trình Thu hoạch sớm về hợp tác kinh tế: Thứ nhất, Khoản d (Phụ lục 4) các nước đồng ý chấp nhận nội dung nghiên cứu khả năng thiết lập thỏa thuận công nhận lẫn nhau đối với hàng nông sản; Thứ hai, Khoản e (Phụ lục 4), ASEAN và Trung Quốc nhất trí với đề xuất của ta bổ sung đoạn mới về “thiết lập cơ chế hợp tác về tiêu chuẩn và hợp chuẩn giữa các bên nhằm thúc đẩy thuận lợi hóa thương mại và hợp tác trong các lĩnh vực khác.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI PHÁT SINH
1. Nội dung Hiệp định khung
+ Thời gian hoàn thành ACFTA và ASEAN 6 và Trung Quốc:
Đây là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, Phillipin vẫn tiếp tục giữ lập trường về thời điểm hoàn thành ACFTA là 2012. Quan điểm này đồng thời nhận đợc sự ủng hộ của Malaysia và Inđônêsia. Phía Trung Quốc kiên quyết không chấp nhận thời điểm 2012 và chỉ chấp nhận thời điểm 2010 như là một nguyên tắc. Thậm chí, cả hai bên đã không thể nhất trí về ngôn ngữ thể hiện sự khác biệt đó trong Hiệp định khung cho dù là với hình thức bảo lưu. Do đó, liên quan đến nội dung này cho đến nay Hiệp định khung vẫn bỏ trống. Đối với các nước thành viên mới của ASEAN, trong đó có Việt Nam thời điểm này đã được xác định thống nhất là 2015 nên ta không có vướng mắc gì với vấn đề này.
+ Thời điểm hoàn thành ACFTA của Lào, Myanmar và Campuchia:
Do các nước ASEAN 6 (đặc biệt là Phillipin, Malaysia và Inđônêsia) và Trung Quốc vẫn bất đồng lớn về thời điểm hoàn thành ACFTA nên một số nước ASEAN mới gồm: Campuchia, Lào và Myanmar (CLM), đặc biệt là Lào lo ngại về lợi ích của mình bị ảnh hưởng, nhất là so với Chương trình thực hiện CEPT/AFTA của những nước này, đã yêu cầu bảo lưu đối với vấn đề hoàn thành ACFTA là “năm 2015 với linh hoạt đến năm 2017 đối với một số mặt hàng”. Phía Trung Quốc yêu cầu bảo lu. CLM rút lại yêu cầu 2017 nhưng đề nghị có linh hoạt cho một số mặt hàng. Phía Trung Quốc vẫn thuyết phục các nước CLM không nên đưa ra đề nghị đó. Thực tế, tất cả các thành viên đều thấy một số mặt hàng nhạy cảm sẽ có thể có thời hạn thực hiện dài hơn. Vì vậy, về phía ta, do thời hạn 2015 đã được nhất trí tại Hội nghị Bộ trưởng AEM-MOFTEC tháng 9/2002 tại Brunei, phù hợp với tiến trình hội nhập của nước ta và đồng thời tránh được việc phải đàm phán giữa các nguyên thủ tại Hội nghị cấp cao sắp tới, ta không yêu cầu đối với nội dung này.
+ Vấn đề nguyên tắc thực hiện cam kết trong khuôn khổ ACFTA:
Nguyên tắc thực hiện cam kết trong khuôn khổ ACFTA được đề cập đến trong Điều 9 và 10 của Hiệp định khung, tuy nhiên, về bản chất, hai điều khoản này chỉ đề cập đến nghĩa vụ của các nước ASEAN trong quan hệ với Trung Quốc trong khuôn khổ ACFTA, đồng thời vẫn tiếp tục bảo lưu thỏa thuận về nguyên tắc thực hiện cam kết sau này. Do đó, Hội nghị đã nhất trí không đề cấp đến vấn đề này trong Hiệp định khung và đưa vào Điều 3.8 (a) về những nội dung cần đàm phán sau khi Hiệp định đã được ký kết. Như vậy, việc bỏ điều 9 và 10 không làm ảnh hưởng đến nội dung của Hiệp định.
+ Quy tắc xuất xứ tạm thời:
Do danh mục các mặt hàng cụ thể trong Chương trình Thu hoạch sớm chưa được xác định đầy đủ và thời gian ký kết Hiệp định Khung sắp đến gần nên ASEAN và Trung Quốc nhất trí không đưa Quy tắc xuất xứ tạm thời vào trong Hiệp định Khung và sẽ hoàn thành đàm phán Quy tắc xuất xứ tạm thời vào tháng 7/2003.
2. Đàm phán song phương về Chương trình thu hoạch sớm liên quan đến hàng hóa
ASEAN và Trung Quốc tiếp tục đàm phán song phương về Danh mục loại trừ đối với các mặt hàng từ Chương 1 - 8. Mục tiêu của Trung Quốc nhằm gây sức ép đối với các nước ASEAN thu hẹp diện mặt hàng loại trừ khỏi Thu hoạch sớm do một số nước ASEAN đã đưa ra Danh mục các mặt hàng loại trừ quá dài như Thái Lan, Malaysia, Lào, Campuchia. Nếu Trung Quốc đưa ra các danh mục loại trừ của họ thì lợi ích về Thu hoạch sớm sẽ bị giảm nhiều. Vì thế, các nước đều cố gắng tối đa để Trung Quốc không đưa ra danh mục loại trừ chống lại mình. Đến nay, ngoại trừ Singapore và Brunei không có danh mục loại trừ, Trung Quốc đã kết thúc đàm phán với Indonesia (nay Indonesia chỉ còn lại 1 mặt hàng loại trừ). Thái Lan vào thời điểm chót cũng đã chấp nhận không đưa ra bất cứ Danh mục loại trừ nào để đạt được sự đồng thuận với Trung Quốc. Đối với Myanmar, Trung Quốc về nguyên tắc đã đồng ý cho Myanmar hưởng Thu hoạch sớm mà không có loại trừ. Phillipin tiếp tục bảo lưu không tham gia Chương trình Thu hoạch sớm với lý do Chương trình không đem lại lợi ích như mong muốn. Tuy nhiên, hiện Phillipin và Trung Quốc vẫn tiếp tục đàm phán. Cho đến 5 giờ sáng ngày 17/10/2002, đàm phán vẫn chưa có kết quả. Malaysia vẫn chưa đàm phán xong với Trung Quốc về Danh mục loại trừ khỏi Thu hoặc sớm nên tới ngày 16/10/2002, hai bên vẫn chưa đạt được nhất trí. Như vậy, cho đến nay các nước hiện chưa đạt được thỏa thuận với Trung Quốc là Phillipin, Malaysia, Lào, Campuchia và Việt Nam. Về nguyên tắc, các ưnớc có thể kéo dài quá trình đàm phán về Thu hoạch sớm trước 1/3/2003 nhưng hầu hết các nước đều mong muốn hoàn thành đàm phán trước khi ký kết Hiệp định khung.
Đối với Việt Nam, ta đã đưa danh mục 17 mặt hàng và đề nghị Trung Quốc xem xét thiện chí của ta. Trung Quốc đưa ra danh mục 12/17 mặt hàng đề nghị ta bỏ ra khỏi danh mục loại trừ. Sau khi nghe phía Việt Nam giải thích, bạn chỉ còn yêu cầu 2 mặt là cam (HS 08051000) và quýt (HS 08052000), đồng thời hứa nếu Việt Nam đồng ý bỏ 2 mặt hàng ra thì Trung Quốc sẽ không có danh mục loại trừ nào với Việt Nam.
III. KIẾN NGHỊ CỤ THỂ
Như vậy, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc về cơ bản không thay đổi so với nội dung trước đây. Các mục tiêu đàm phán của Việt Nam đều đã đạt được, tạo điều kiện tốt cho ta trong quá trình thực hiện và đàm phán sau này.
Vấn đề hiện nay là khó khăn cho ta trong việc kết thúc đàm phán với Trung Quốc về Chương trình Thu hoạch sớm. Quan điểm của Bộ Thương mại cho rằng ta cần sớm hoàn thành Chương trình Thu hoạch sớm về hàng hóa trước khi ký kết Hiệp định khung (dự kiến ngày 4/11/2002) nhằm tạo ấn tượng tốt đối với Việt Nam khi ký kết Hiệp định, đồng thời hạn chế sức ép đàm phán đối với ta có thể tăng lên một khi Hiệp định khung đã đạt được.
Như nêu tại Tờ trình Thủ tướng Chính phủ số 289/TM-ĐB ngày 10/10/2002, Việt Nam rất có lợi khi tham gia vào Chương trình Thu hoạch sớm với mức xuất siêu trên 362 triệu USD và chiếm tới 27,51% kim ngạch xuất khẩu của ta sang Trung Quốc. Trong khi đó, đối với hai mặt hàng cam và quýt, ta đang nhập khẩu chủ yếu là từ Trung Quốc với kim ngạch khoảng 2,7 triệu USD chiếm chưa đầy 0,175% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc (Số liệu của Tổng cục Hải quan năm 2001). Một phần không nhỏ cam và quýt nhập khẩu lậu từ biên giới Trung Quốc nằm ngoài khả năng kiểm soát của cơ quan hải quan. Trong những năm qua, Việt Nam cũng xuất khẩu những mặt hàng này sang Trung Quốc với kim ngạch xuất khẩu năm 2000 là 352 nghìn USD và 2001 là 34 nghìn USD. Điều đó cho thấy hai mặt hàng cam và quýt của hai nước không hoàn toàn mang tính cạnh tranh trực tiếp mà có xu hướng bổ sung lẫn nhau.
Khó khăn của ta là hai mặt hàng trên thuộc Danh mục SEL trong CEPT/AFTA. Nếu nhượng bộ với Trung Quốc thì ta bắt buộc phải nhượng bộ cả với các nước ASEAN khác, cụ thể là ta sẽ buộc phải đẩy nhanh việc thực hiện cắt giảm thuế đối với hai mặt hàng này từ 2013 lên 2008. Tuy nhiên, thực tế là cam quýt của ASEAN không có khả năng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam, thậm chí là đối với cả cam quýt của Trung Quốc. Nhập hẩu của ta từ ASEAN đối với hai mặt hàng này chủ yếu từ Singapore và Malaysia với kim ngạch rất thấp khoảng 14 nghìn USD (Số liệu nă 2000).
Trong mối tương quan đó, Bộ Thương mại cho rằng ta có thể chấp nhận nhượng bộ với Trung Quốc về hai mặt hàng trên để đạt được lợi ích tổng thể, mặt khác ta có thể ngăn chặn hiệu quả hơn hàng nhập lậu qua biên giới đối với hai mặt hàng trên.
Về vấn đề này, Bộ Thương mại sẽ phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu và sớm báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Thương mại xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ và xin ý kiến chỉ đạo để triển khai thực hiện./.
| KT. BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.