BỘ THƯƠNG MẠI | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2911 TM/CSTNTN | Hà Nội, ngày 07 tháng 7 năm 2003 |
TÌNH HÌNH GIÁ CẢ THỊ TRƯỜNG THÁNG 6 VÀ 6 THÁNG/2003
I/ NHẬN ĐINH CHUNG:
Tháng 6, thị trường lưu thông hàng hoá tiếp tục ổn định, sức mua tăng chậm, tăng tập trung chủ yếu các mặt hàng tiêu dùng mùa hè và hoạt động du lịch đã bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc trở lại. Nguồn hàng quan trọng thiết yếu do tác động của một số yếu tố có mức tăng, giảm khác nhau; Giá lương thực bắt đầu giảm tại nhiều tỉnh do vào vụ thu hoạch, giá thịt lợn sau một thời gian dài ở mức cao đã giảm;giá đường kính sau khi bắt đầu tăng tại một số địa bàn trong 15 ngày đầu tháng đã giảm lại; giá hàng nông sản liên quan đến xuất khẩu như cà phê lại giảm; trong khi đó giá hạt tiêu lại nhích tăng; giá vật tư tương đối ổn định, riêng giá thép xây dựng trong những ngày trong những ngày cuối tháng bắt đầu tăng ở vài nơi, giá một số hàng công nghiệp tiêu dùng tiếp tục xu hướng giảm.
Thị trường nội địa 6 tháng đầu năm cho thấy, nền kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện còn nhiều khó khăn; hạn hán kéo dài trên diện rộng, chiến tranh Irắc, dịch Sars. Chiến tranh irắc xảy ra đã làm cho cung- cầu giá cả hàng hoá thế giới và trong nước diễn biến phức tạp (Giá của khoảng 16/32 nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu tăng 7-30%, kéo theo giá trong nước của một số hàng hoá, dịch vụ như: xăng dầu, sắt thép , phân bón thuốc chữa bệnh sản phẩm nhựa, cước vận chuyển từ 0,7-39%). Hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp gặp không ít khó khăn do phải đối mặt với nguy cơ bị lỗ (Thép, phân bón, giấy, đường....) cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt... Nhưng dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự phối hợp đồng bộ của các Bộ, Ngành, các Tổng công ty ngành hàng lớn và các Hiệp hội, thị trường trong nước đã vượt khó khăn, cung- cầu các mặt hàng quan trọng, thiết yếu luôn được giữ vững, đáp ứng tốt mọi nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất dân cư và đảm bảo nguồn dự trữ để đề phòng biến cố xấu nhất có thể xảy ra; giá cả được điều hành chặt chẽ như việc điều chỉnh giá bán tối đa đối với xăng dầu bỏ giá trần đối với sắt thép, ổn định giá đối với xi măng, phân phối ..thu nhập của người nông dân tiếp tục được cải thiện, do giá nông sản tiếp tục được duy trì ở mức có lợi cho người nông dân (lương thực, thực phẩm tươi sống)Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 6 ước đạt 24.900 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng 5, ước 6 tháng đầu năm 2003 đạt 148.600 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2002.
Giá cả hàng hoá trên thị trường những tháng đầu năm (đặc biệt trong những ngày lễ Tết) nhìn chung không có đột biến lớn trên phạm vi rộng, tuy nhiên một số mặt hàng do tác động của một số yếu tố có mức tăng, giảm khác nhau; Giá lương thực nhìn chung giữ ở mức giá có lợi cho người nông dân; giá các mặt hàng thực phẩm tăng dần và giữ ở mức khá cao; giá đường kính giảm dần (đặc biệt giá mía nguyên liệu một số tỉnh giảm ở mức thấp); Giá một số mặt hàng nông sản liên quan đến thu nhập của người nông dân (Cà phê, hạt, hạt Điều) có thời điểm giảm, song nhìn chung vẫn ở mức giá cao hơn cùng kỳ; giá nhiều loại vật tư do tác động của giá thế giới tăng đã tác động tới giá bán trong nước (Phân bón, phôi thép và thép thành phẩm, xăng dầu, hoá chất...) Giá một số mặt hàng công nghiệp tiêu dùng trước sức ép của quá trình hội nhập đã bắt đầu giảm.
Do giá một số mặt hàng trong tháng 6/2003 giảm, nên chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2003 so với tháng 5/2003 giảm 0,3%, Trong cơ cấu chỉ số giá tháng 6/2003 có 6 nhóm chỉ số giá giảm (trong đó lương thực giảm là 1,6%, các nhóm khác giảm 0,1-0,4%), 3 nhóm chỉ số giá tăng từ 0,1-0,5% và 2nhóm là ổn định; Giá vàng tăng 3,8%, giá đô La Mỹ tăng 0,1%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2003 chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,1% (6 tháng đầu năm 2002 tăng 2,9%), trong đó lương thực giảm 1,2%; Thực phẩm tăng 2,9%; dược phẩm- y tế tăng 13,5%, các nhóm còn lại có mức tăng từ 1-2,5%, riêng nhóm văn hoá- thể thao giải trí giảm 0,4%; giá vàng tăng 10,1%; gia đô la Mỹ tăng 0,6%. Dự kiến trong vài tháng tới chỉ số giá tiêu dùng sẽ giảm nhẹ, sau đó sẽ tăng dần vào cuối năm.
II/ GIÁ MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU
1/ Giá lương thực: Do thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nên diện tích trồng lúa Đông xuân năm nay giảm khoảng 12,6 ngàn ha, mặt khác thời tiết năm nay hạn hán kéo dài tại nhiều nơi, sản xuất, sản lượng lúa vụ Đông xuân ước đạt 16,5 triệu tấn, giảm gần 200.000 tấn so với năm 2002 (trong đó phía Bắc giảm khoảng 19.000 tấn, phía năm giảm 174.000 tấn )
Các tỉnh phía Bắc trong thang thu hoạch rộ vụ lúa đông xuân, nguồn cung lương thực trên thị trường gia tăng cùng vụ thu hoạch, giá lương thực giảm trên diện tích rộng từ 200-300 đ/kg, các tỉnh đồng bằng sông Hồng ở mức từ 1.600-1.800 đ/kg (lúa) và 2.700-3.000 đ/kg (gạo). Nếu thời tiết thuận lợi cho việc thu hoạch, phơi cất, khả năng giá lương thực sẽ không giảm nhiều.
Các tỉnh phái Nam, nhiều nơi bước vào thu hoạch lúa Hè Thu, nguồn cung trên thị trường đã được bổ sung, giá lúa Hè Thu bắt đầu giảm từ 100-150 đ/kg, phổ biến ở mức từ 1.500- 1.55- đ/kg. Riêng giá lúa Đông xuân lại chiều hướng tăng từ 50-100 đ/kg, dao động ở mức 1.750-1.800 đ/kg, giá gạo từ 2.800-3.000 đ/kg. Thời gian tới giá Hè Thu sẽ giảm, nhưng mức giảm không nhiều, giá lúa Đông xuân tiếp tục nhích tăng do nguồn cung giảm dần, trong khi nhu cầu xuất khẩu gạo sẽ tăng với giá xuất khẩu tiếp tục vững giá.
Diễn biến giá lương thực trong 6 tháng đầu năm cho thấy, thị trường tiêu thụ và giá cả lương thực được cải thiện hơn, nguồn cung ứng đảm bảo cho mọi nhu cầu (kể cả tháng giáp hạt; không có biến động lớn về giá) giá lương thực nhìn chung trong xu hướng tăng, chỉ giảm trong thời gian nhắn khi thu hoạch rộ (1 số tỉnh ĐBSCL giá lúa Đông xuân vụ 2002/2003 giảm ở mức nhất còn 1.500- 1.550 đ/kg, trong khi vụ Đông xuân 2001/2002 mức thấp nhất là 1.250- 1.350 đ/kg), giá lương thực tăng góp phần tăng thu nhập, sức mua của người nông dân được cải thiện, nguyên nhân quan trọng hỗ trợ giá lương thực tăng, do sản lượng lương thực giảm các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cùng với giá gạo trên thị trường thế giới năm nay tiếp tục được cải thiện.
Trên thị trường Châu Á giá gạo trong tháng biến động theo chiều hướng khác nhau. Tại Thái Lan nhu cầu vững cùng đồng Baht tăng giá là nguyên nhân hỗ trợ giá chào bán gạo của Thái Lan tăng; gạo 100% B từ 204 USD/T tăng lên 210 USD/T; 25 % tấn từ 174 USD/T tăng lên 181 USD/T. Tại Việt Nam nhu cầu nhập khẩu mới vẫn ở mức thấp, trong khi nguồn cung tăng cùng vụ thu hoạch, giá chào xuất khẩu gạo bắt đầu giảm; gạo 5% tấm từ 185-186 USD/T Giảm xuống còn 183 USD/T; 25% tấm từ 168-170 USD/T giảm xuống còn 163 USD?T. Nhìn chung xuất khẩu gạo trong 6 tháng đầu năm có nhiều thuận lợi về giá và thị trường, nhu cầu nhập khẩu gạo Việt Nam của các thị trường được cải thiện, VIệt Nam tiếp tục được Liên Hợp quốc cho xuất khẩu gạo sang Irắc theo chương trình đổi dầu lấy lương thực, Ước xuất khẩu gạo trong tháng 6 năm 2003 đạt 400.000 tấn, ước 6 tháng đầu năm 2003 đạt 2,394 triệu tấn (6 tháng đầu năm 2002 đạt 1,553 triệu tấn) tăng 54,2% về số lượng và 36,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2002. Giá xuất khẩu gạo trong 5 tháng đầu năm tuy có tăng (gạo 5% tấm từ 177 USD/T tăng lên 185-187 USD/T; 25% tấm từ 162 USD/T tăng lên 168-170 USD/T) song vẫn ở mức giá thấp hơn so với cùng kỳ năm 2002 (giá xuất khẩu bình quân: 5 tháng đầu năm 2002 là 215,7 USD/T; 5 tháng đầu năm 2003 là 187,7 USD/T).
2/ Giá nông sản-thực phẩm
Giá thịt lợn: Do bước vào hè, nhu cầu tiêu thụ giảm, trong khi lợn đến tuổi xuất chuồng tăng nên giá thịt lợn sau một thời gian dài ở mức cao đã bắt đầu giảm tại nhiều nơi, mức giảm từ 300-700 đ/kg, Các tỉnh thành phổ biến ở mức; Lợn hơi: 10,500- 12,500 đ/kg (phía bắc) và 15.500 -16.500 đ/kg (phía nam), thịt lợn Mông sấn: 22.000-23.000 đ/kg (phía bắc) và 28.000-29.500đ/kg (phía nam). Năm nay do giá tại thời điểm hiện nay tương đương với giá cùng kỳ năm 2002. Dự báo thời gian tới giá thịt lợn chiều hướng giảm tại một số điạ bàn, do nhu cầu tiêu thụ giảm cộng với ảnh hưởng của bão lũ nông dân đẩy mạnh bán ra, song mức giảm không nhiều.
- Giá đường kính; Trước tình hình giá đường kính trên thị trường giảm xuống mức thấp, gây thiệt hại lớn tới sản xuất, kinh doanh của các nhà máy đường, nhằm nâng đỡ giá đường trên cơ sở giảm nguồn cung cấp ra thị trường, từ ngày 31/5/2003, 1 số nhà máy đường phía Nam đã ngưng ký hợp đồng mới bán đường ra thị trường trong thời gian 1 tháng. Do nguồn cung trên thị trường giảm, trong khi nhu cầu tiêu thụ mùa hè tăng, nên giá đường trên thị trường đã bắt đầu tăng từ 100-200 đ/kg tại nhiều tỉnh phía Nam, Tại TPHCM giá bán buôn đường RE Khánh Hội tăng 200 đ/kg lên 5.200 đ/kg, RE Biên Hoà tăng 100 đ/kg lên 5.300 đ/kg ... Những ngày cuối tháng giá đường đã ổn định trở lại, Đường RE trên trị trường phổ biến từ 4.500- 5.500 đ/kg.
Việc tạm ngưng bán đường của các nhà máy đường sẽ là cơ hội cho việc nhập lậu đường có nguy cơ gia tăng, vì hiện nay giá đường trên thị trường thế giới đang giảm ỏ mức thấp (theo Bộ NN Mỹ sản lượng đường thế giới niên Vụ 2002/2003 đạt 138,5 triệu tấn, cao hơn nhu cầu tiêu thụ 5,2 triệu tấn, đây là nhân tố bất lợi cho giá đường thế giới) Do vậy để hoạt động sản xuất; kinh doanh đường của các nhà máy có hiệu quả, vấn đề đặt ra phải tìm cách giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Vụ mía đường 2002/2003 sản lượng mía đạt khá cao, ước khoảng 15,7 triệu tấn, sản lượng đường các loại khoảng trên 1,1 triệu tấn, đủ đường cho tiêu dùng trong nước và ước dư thừa khoảng 200.000 tấn, Ngay từ đầu vụ các nhà máy đường tại các tỉnh ĐBSCL đã có nhiều cố gắng trong việc tiêu thụ mía nguyên liệu, song tình trạng mía tồn đọng trong dân còn nhiều không tiêu thụ kịp, giá thu mua mía năm nay giảm thấp, có nơi giá mua mía nguyên liệu có thời điểm chỉ còn dưới năm nay giảm thấp, có nơi giá mua mía nguyên liệu có thời điểm chỉ còn dưới 100.000 đ/T ( do vụ 2001/2002 giá mía tăng cao, nên vụ 2002/2003 diện tích trông múa nhiều nơi phát triển không phù hợp với công xuất thiết kế, có nơi nguồn nguyên liệu mía quá thừa không tiêu thụ được...) Nhìn chung vụ mía đường 2002/2003 cả 2 vùng ĐBSCL và miền Đông Nam Bộ đều bội thu về sản lượng mía, nhưng do giá đường trên thị trường giảm, nên cả nhà máy và nông dân đều bị thua lỗ.
Giá cà phê; Trong tháng do tác động của giá cà phê trên thị trường thế giới và giá xuất khẩu của Việt Nam giảm, giá cà phê tại các vùng sản xuất tập trung giảm từ 600- 800 đ/kg, hiện nay ở mức từ 8.500-9.000 đ/kg (L1) và 8.000-8.400 đ/kg. Trong 6 tháng đầu năm nay nhìn chung giá cà phê trên thị trường được cải thiện hơn sơ với cùng kỳ, với mức giá cà phê L1 cao nhất là 11.500-11.800 đ/kg, thấp nhất là 8.500-9.000 đ/kg (6 tháng đầu năm 2002 giá cà phê cao nhất là 7.800 đ/kg, thấp nhất là 4.200-4.500 đ/kg).
Trên thị trường thế giới nhu cầu tiêu thụ không tăng, thời tiết ở Braxin đã trở lại bình thường, các nhà đầu cơ và các quỹ đầu tư tăng bán ra là nguyên nhân chủ yếu tác động tới giá cà phê trong tháng 6 giảm; Tại Luân Đôn cà phê robusta giao tháng 7/2003 từ 702 USD/T giảm xuống còn 662 USD?T (28/6). Giá cà phê xuất khẩu tại Việt Nam từ 640-650 USD/T giảm xuống còn 600-610 USD/T (28/6).
Nhìn chung giá xuất khẩu cà phê năm nay cao hơn so với cung kỳ năm 2002 (giá xuất khẩu bình quân; 5 tháng đầu năm 2002 là 367 USD/T; 5 tháng đầu năm 2003 là 699.3 USD/T).
Theo dự đoán của Tổ chức cà phê Quốc tế, sản lượng cà phê thế giới vụ 2002/2003 đạt 124,6 triệu bao, tăng 11,3 so với vụ trước. Tiêu thụ dự báo tăng khoảng 4,55lên 119,2 triệu bao, thấp hơn sản lượng 5,4 triệu bao, tồn kho cuối vụ vẫn ở mức cao, khoảng 68,1 triệu bao, tăng 11,5%, điều này sẽ tác động bất lợi lâu dài tới giá cà phê trên thị trường.
Giá hạt tiêu trên thị trường tại các vùng sản xuất tập trung trong tháng tăng từ 500-800 đ/kg, dao động ở mức 17.500-18.500 đ/kg. Trong những tháng đầu năm tuy ảnh hưởng của thời tiết, sản lượng hạt tiêu giảm, nhưng do giá hạt tiêu trên thị trường thế giới giảm, đã tác động tới giá hạt tiêu trong nước chiều hướng giảm; từ 23.000-24.000 đ/kg giảm còn 17.500-18.000 đ/kg.
3/ Giá vật tư:
Giá xăng dầu; Trên thị trường thế giới tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC đã quyết định giữ sản lượng khai thác 25,4 triệu thùng dầu thô/ngày (nhằm giữ giá dầu cần được duy trì trong khoảng 22-28 USD/ thùng), nhưng do n hu cầu tiêu thụ tăng (đặc biệt tiêu dùng của Mỹ lớn hơn mức dự kiến, Tồn kho dầu thô của Mỹ giảm) trong khi sản lượng dầu thô cảu irắc không tăng nhanh hơn dự kiến, đây là nhân tố hỗ trợ cho giá dầu thô tiếp tục nhích tăng trong tháng; Dầu thô Brent Biển bắc giao tháng 7/2003 có thời điểm tăng lên 28,37 USD/thùng, Dự báo khả năng giá xăng dầu tiếp tục vững giá.
Giá xăng dầu trong nước ổn định, nguồn cung đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu.
Như vậy trong 6 tháng đầu năm, mặc dù thị trường xăng dầu thế giới diễn biến phức tạp do ảnh hưởng của cuộc chiến Mỹ- irắc, song nhờ có sự chỉ đạo kịp thời của các ngành chức năng trong việc điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu xăng dầu và giá bán lẻ, đồng thời các doanh nghiệp đảm bảo tiến độ nhập khẩu xăng dầu, nên thị trường xăng dầu nội địa nhìn chung ổn định cả về nguồn cung và giá bán, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống.
- GIá thép xây dựng: Đang vào mùa mưa nên nhu cầu tiêu thụ thép nhìn chung vẫn ở mức thấp(so với tháng 4/2003 có khá hơn), giá thép trên thị trường nhìn chung đã chững lại, trừ một vài tỉnh trong những ngày đầu tháng tiếp tục giảm nhẹ từ 50-80đ/kg. Các tỉnh phổ biến ở mức; Thép phi 6 từ 5.800-6.000 đ/kg (cùng thời điểm này năm 2002 là 4.800-5.000 đ/kg). DO tiêu thụ chậm hiện nay lượng thép tồn kho của các đơn vị sản xuất tăng cao, để hạn chế cạnh tranh không lành mạnh qua việc điều chỉnh giảm giá bán, vừa qua các thành viên trong HIệp Hội thép Việt Nam đã thống nhất giữ giá thép ổn định như hiện nay và từng bước nâng dần giá bán để tránh lỗ.
Trong những ngày giữa tháng giá phối thép và các mặt hàng thép nhập khẩu đã bắt đầu tăng trở lại từ 25-40USD/T, Giá phôi thép nhập khẩu ở mức 260-265 USD/T, tăng 30 USD/T so với mức giá cuối tháng 5/2003, riêng loại thép cuốn cán nóng tăng 45 USD/T, giá nhập lên đến 280-285 USD/T, nguyên nhân của tình hình này do các doanh nghiệp nhập khẩu Trung quốc đã được cấp hạn ngạch nhập khẩu thép từ 25/5/2003. Thời gian tới nếu giá phôi thép và thép nhập khẩu tiếp tục tăng trở lại hỗ trợ giá thép trong nước.
Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm, do tác động của giá phôi thép và thép nhập khẩu trên thị trường thế giới tăng cao, phôi thép từ 245 USD/T có thời điểm tăng lên 285-300 USD/T (giá nhập khẩu phôi thép bình quân; 5 tháng đầu năm 2002 là 188,9 USD/T; 5 tháng đầu năm 2003 là 240 USD/T), đã tác động tới giá thép trên thị trường trong nước tăng cao, có thời điểm giá thép xây dựng đạt mức 6.000-6.200 đ/kg ( có nơi lên đến 6.300- 6.400 đ/kg do giá cước vận chuyển tăng ) sản lượng sản xuất thép cần trong 6 tháng đầu năm của: Tcty thép là 425.172 tấn bằng 96% so với cùng kỳ. Liên doanh là 414.480 tấn bằng 88% so với cùng kỳ. Lượng thép là 988.000 tấn. Tăng 15,2% so với cùng kỳ, Tiêu thụ thép xây dựng trong 6 tháng đầu năm đạt 968,580 tấn, bằng 92,3% si với cùng kỳ.
Giá xi măng; Do đang trong mùa mưa, cộng với việc giải ngân của một số dự án trọng điểm còn chậm... nên nhu cầu tiêu thụ xi măng trong tháng giảm, nhưng giá xi măng vãn ổ định trong cả nước; xi măng PC 30 từ 760-790 đ/kg (phía bắc) và 860-970 đ/.kg (phía nam), Trong 6 tháng đầu năm 2003; Sản lượng sản xuất xi măng đạt khoảng 10,5 triệu tấn ( trong đó Tcty xi măng Việt Nam chiếm 47,6%) tiêu thụ xi măng đạt khoảng 10,8 triệu tấn, tăng 12% so với cùng kỳ ( trong đó Miền Bắc tăng17% miền Trung và miền Nam tăng 7%), tuy nhu cầu tiêu thụ xi măng những tháng đầu năm tăng cao hơn cùng kỳ , nhưng so với giá vật tư nguyên liệu khác thì giá xi măng lại khá ổn định.
Trong những tháng cuối năm nhu cầu tiêu thụ xi măng sẽ tăng cao ( dự báo khoảng 12 triệu tấn), sản xuất trong nước chưa đáp đủ phải nhập khẩu , mặt khác bắt đầu từ 1/7/2003 thuế nhập khẩu xi măng chỉ còn 20%, nên Việt Nam sẽ là thị trường hấp dẫn của các nhà sản xuất xi măng trong khu vực, dẫn đến sức ép giảm giá thị trường để cạnh tranh, Trước tình hình đó để cung cấp đủ nguồn xi măng và bình ổn thị trường áp lực của Hội nhập, giữa các thành viên của Tcty xi măng Việt Nam và các đơn vị liên doanh xi măng đã có những giải pháp ổn định giá xi măng, chống mọi biểu hiện phá giá thị trường.
Dự báo trong những tháng cuối năm giá xi măng sẽ giảm từ 10.000-20.000 đ/T, do việc điều chỉnh giảm giá của các công ty trên cơ sở giảm giá thành sản xuất.
Giá phân bón Urê; trong tháng nhu cầu tiêu thụ phân bón tại các tỉnh phía Bắc giảm, riêng một số tỉnh phía Nam nhu cầu tiêu thụ phân bón cao lúa Hè thu tăng, nhưng nguồn cung phân bón trên thị trường lớn, giá phân Urê nhìn chung ổn định ở mức 2.750-2.950 đ/kg (cùng thời điểm này năm 2002 là 2.300 -2.500 đ/kg).
Trong 6 tháng đầu năm do giá phân bón trên thị trường thế giới diễn biến phức tạp; Trong tháng 2 và tháng 3 giá phân bón tăng cao, có thời điểm lên đến 172 USD/T ( cuối năm 2002 chỉ ở mức 125-130 USD/T), nhưng bắt đầu từ tháng 4 trở đi giá phân Urê đã bắt đầu trở lại, hiện ổn định ở mức 140-145 USD/T, Sự biến động của giá phân bón trên thị trường thế giới đã tác động tới giá bán trong nước, 3 tháng đầu năm giá phân Urê tăng nhanh đạt mức 2.800-3.100 đ/kg (cuối năm 2002 từ 2.300- 2.500 đ/kg). 6 tháng đầu năm 2003 ước nhập khẩu 1,949 triệu tấn phân các loại, tăng 5,8% so với cùng kỳ (trong đó phê phán Urê là 919.000 tấn, tăng 0,9% so cùng kỳ). Hiện nguồn cung phân bón đảm bảo đáp ứng nhu cầu vụ Hè thu và còn gối đầu gần 200.000 tấn sang vụ sau. Vừa qua do giá phân bón thế giới giảm, nhằm hạn chế thiệt hại cho các doanh nghiệp do nhập phân Urê giá cao, các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón đã thống nhất quy định giá bán tối thiểu cho các loại phân bón.
Dự báo thời gian tới giá phân bón sẽ ít biến động.
4/ Giá vàng và đô là Mỹ;
- Giá vàng trên thị trường thế giới trong tháng bắt đầu chiều hướng giảm; tại Luân Đôn từ 365 USD/ounce giảm còn 345,5 USD/ounce (27/6). Giá vàng trong nước biến động giảm theo giá vàng thế giới từ 4.000- 6.000 đ/chỉ, hiện đao động ở mức 656.000- 663.000 đ/chỉ.
Trong 6 tháng đầu năm giá vàng thế giới tuy có thời điểm giảm, song nhìn chung là tăng, có thời điểm đạt mức trên 374 USD/ounce, đã tác động tới giá vàng trong nước tăng từ 20.000-25.000 đ/chỉ (có thời điểm giá vàng đạt mức 675.000-685.000đ/chỉ).
- Giá đô la Mỹ trên thị trường tự do trong tháng tăng nhẹ từ 5-10 đ/USD dao động ở mức 15.490-15.510 đ/USD.
Tỷ giá mua, bán của ngân hàng Ngoại thương tiếp tục được điều chỉnh tăng giá bán ta từ 15.478 đ/USD tăng lên 15.502 đ/USD.
Như vậy trong 6 tháng đầu năm giá đô la Mỹ trên thị trường tự do và của ngân hàng Ngoại thương tăng từ 90-100 đ/USD.
III/ DỰ KIẾN GIÁ TRONG THỜI GIAN TỚI:
Sự biến động của giá cả thị trường những tháng cuối năm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có những yếu tố chủ yếu sau:
-Thời tiết có khả năng diễn biến phức tạp, bão, lũ lụt có thể xảy ra tác động tới nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó sản xuất nông nghiệp bị tác động mạnh nhất.
- Kinh tế thế giới tăng trưởng khá hơn đầu năm, trong đó kinh tế châu á phục hồi. Nhu cầu tiêu thụ vật tư- hàng hoá được cải thiện sẽ hỗ trợ giá cả trên thị trường, song mức độ biến động giá cả không lớn, do cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu ngày càng gay gắt.
Từ 1/7/2003 Việt Nam phải thực hiện giảm thuế nhập khẩu 10.150 mặt hàng từ các nước Asean (trong đó 73,6% mặt hàng phải giảm thuế có thuế suất nhập khẩu từ 0-5%, mặt hàng còn lại có thuế suất nhập khẩu tối đa là 20%), tình hình này sẽ tác động tới mặt bằng giá trong nước, nhiều mặt hàng sẽ giảm dần.
Chính phủ tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách, biện pháp về tài chính, tiền tệ.. nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, góp phần bình ổn thị trường.
- Nguồn hàng trên thị trường vẫn trong bối cảnh lớn hơn nhu cầu, Việc tiêu thụ nhiều mặt hàng trong nước sẽ gặp không ít khó khăn, do khả năng cạnh tranh hàng sản xuất trong nước chưa cao.
Từ nhận định trên cho thấy giá cả hàng hoá trong 6 tháng cuối năm sẽ diễn biến theo chiều hướng tích cực, không xảy ra biến động lớn, nhất là đối với mặt hàng thiết yếu, Trước mắt trong tháng 7 giá lương thực và một số mặt hàng thực phẩm tươi sống khả năng sẽ giảm, nhưng mức giảm không nhiều (riêng giá lúa gạo vụ Đông xuân tại các tỉnh ĐBSCL sẽ nhích lên do nguồn cung giảm); giá một số mặt hàng nông sản liên quan đến xuất khẩu: Cà phê , hạt tiêu tuy có nhích lên, nhưng còn ở mức thấp; Giá một số mặt hàng tiêu dùng sẽ giảm dần cùng với sự điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu, giá vật tư, nguyên liệu khả năng duy trì ở mức giá hiện tại. Dự kiến chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2003 sẽ giảm nhẹ.
| TL/BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI |
BIỂU 1
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG VÀ CHỈ SỐ GIÁ ĐÔLA MỸ CẢ NƯỚC
Tháng 6 năm 2003
| Mã Kỳ | Chỉ số tháng 6 năm 2003 so với (%) | |||
Kỳ gốc năm 2000 | Tháng 6 năm 2002 | Tháng 12 năm 2002 | Tháng 5 năm 2003 | ||
A | B | 1 | 2 | 3 | 4 |
Chỉ số giá tiêu dùng I Lương thực- Thực phẩm Trong đó: 1-lương thực 2- thực phẩm II Đồ uống và thuốc lá III May mặc mũ nón giầy dép IV. Nhà ở và vật liệu xây dựng V Thiết bị và đồ dùng gia đình VI, Dược phẩm, Y tế VII, Phương tiện đi lại, bưu điện VIII. GIáo dục IX. Văn hoá, thể thao, giải trí X. Đồ dùng và dịch vụ khác | C 0 01 02 1 2 3 4 5 6 7 8 9 | 107,5 109,7 106,5 111,4 106,9 104,8 113,2 103,2 116,9 98,0 111,1 99,8 106,8 | 103,2 101,6 100,7 101,9 104,5 102,7 109,1 101,4 113,6 103,6 103,0 98,6 103.2 | 102,1 101,6 99,8 102,9 102,1 102,1 102,5 101,1 113,5 101,9 101,0 99,6 102,1 | 99,7 99,5 98,4 99,9 100,0 100,0 99,6 100,1 99,8 99,9 100,5 99,8 100,1 |
Chỉ số giá vàng Chỉ số giá đô la mỹ | V U | 136,0 108,9 | 113,2 101,4 | 110,1 100,6 | 103,8 100,1 |
BIỂU SỐ 2
CHỈ SỐ GIA TIÊU DÙNG
CHỈ SỐ GIÁ VÀNG VÀ CHỈ SỐ GIÁ ĐÔ LA MỸ KHU VỰC NÔNG THÔN CẢ NƯỚC
Tháng 6 năm 2003
| Mã số | Chỉ số tháng 6 năm 2003 so với (%) | |||
Kỳ gốc năm | Tháng 6 năm 2002 | Tháng 12 năm 2002 | Tháng 5 năm 2003 | ||
A | B | 1 | 2 | 3 | 4 |
Chỉ số tiêu dùng I.Lương thực - Thực phẩm Trong đó 1-Lương thực Thực phẩm II Đồ uống và thuốc lá III May mặc, Mũ nón, giầy dép IV Nhà và vật liệu xây dựng V Thiết bị và đồ dùng gia đình VI. Dược phẩm, ytế VII. Phương tiện đi lại, bưu điện. VIII. Giáo dục IX.Văn hoá, thể thao, giải trí X. Đồ dùng và dịch vụ khác. | C 0 01 02 1 2 3 4 5 6 7 8 9
| 106,4 108,6 106,1 110,7 1044,9 104,1 112,1 102,7 117,8 96,3 105,4 98,2 107,6 | 102,7 101,5 100,4 101,6 103,2 102,5 108,7 101,5 115,1 103,6 101,5 98,1 104,3 | 101,8 101,1 98,2 102,4 101,2 101,8 103,1 101,3 114,4 102,5 100,5 99,3 102,7
| 99,7 99,4 98,1 99,9 100,0 100,1 99,6 100,1 99,7 100,0 100,4 99,9 100,1 |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.