BỘ THƯƠNG MẠI | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1147/BTM-CATBD | Hà Nội, ngày 29 tháng 3 năm 2002 |
Kính gửi: | - Văn phòng Chính phủ |
Phúc đáp công văn số 1551 BKH/KTĐN, ngày 14 tháng 3 năm 2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc báo cáo tình hình hợp tác thương mại với Thái Lan, chuẩn bị cho kỳ họp Uỷ ban Hỗn hợp về Hợp tác Việt Nam - Thái Lan, Bộ Thương mại xin báo cáo cụ thể như sau:
1. Đánh giá chung và tình hình thực hiện thoả thuận của UBHH lần thứ 6.
Kể từ thời gian họp UBHH lần thứ 6 (tháng 6/1999), quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước cũng có những bước phát triển đáng kể. Năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt 869 triệu USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt 313 triệu và nhập khẩu đạt 556 triệu USD, năm 2000 kim ngạch thương mại hai chiều đạt mức kỷ lục 1,2 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 389 triệu USD và nhập khẩu 813 triệu USD. Sang năm 2001 hai nước gặp không mấy thuận lợi so với năm 2000. Kim ngạch hai chiều năm 2001 đạt 1,12 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 323 triệu USD và nhập khẩu 802 triệu USD. Nhìn chung kim ngạch có giảm nhưng không nhiều. Nguyên nhân nào dẫn đến sự giảm sút kim ngạch này? Một là, sang năm 2001 Thái Lan có những chính sách hạn chế nhập khẩu nói chung. Hai là, một số mặt hàng ta nhập khẩu nhiều từ Thái Lan như xe máy giảm (năm 2000 là 168 triệu USD, năm 2001 còn 119 triệu USD), mặt hàng Clinker năm 2001 ta không nhập khẩu nữa vì Việt Nam đã sản xuất được và đáp ứng nhu cầu trong nước. Ngoài ra, có sụt giá của một số nông sản nên kim ngạch xuất khẩu của ta có phần giảm so với năm 2000, mặc dù số lượng xuất khẩu không giảm thậm chí tăng. Nhìn chung về kim ngạch hai chiều hai bên đã đạt được mục tiêu của kỳ họp UBHH lần thứ 6 đề ra là 1,2 tỷ USD vào năm 2000.
Về việc thúc đẩy xuất khẩu dầu thô và khí tự nhiên sang Thái Lan, Việt Nam đã thúc đẩy xuất khẩu dầu thô sang Thái Lan từ năm 1999 - 2000 từ 45 triệu lên 73 triệu USD, nhưng sang năm 2001 lại giảm còn 39 triệu USD vì giá dầu giảm.
Về cơ chế hàng đổi hàng, ta đã đề nghị phía Thái Lan hợp tác triển khai nhưng phía Thái Lan không hưởng ứng. Thực tế cơ chế này cũng khó thực hiện vì cơ chế ở mỗi nước khác nhau.
Về trao đổi thông tin gạo giữa hai nước, trong thời gian từ 2000-2001 và đầu năm 2002 hai bên đã cử một số đoàn về gạo sang làm việc ở mỗi nước và hai bên đã ký MOU về hợp tác trên nhiều lĩnh vực như thông tin, phối hợp marketing... Tác dụng của hợp tác gạo là nhằm vào làm thất bại các hoạt động ép giá của giới đầu cơ trung gian quốc tế. Giá gạo quốc tế đã ổn định và tăng so với thời kỳ chưa nêu rõ hình ảnh hợp tác quốc tế giữa hai nước.
Về đầu tư, kể từ năm 1999 đến nay Thái Lan có 31 dự án đầu tư vào Việt Nam theo các năm 1999-2000-2001 và 2002 thứ tự là 13; 8; 9 và 1 dự án. So với năm 1998, số lượng các dự án đầu tư của Thái Lan vào Việt Nam có tăng. Trong các cuộc gặp cấp cao và giữa các doanh nghiệp hai bên đều đề cập đến các biện pháp tăng cường đầu tư Thái Lan vào Việt Nam bằng cách đơn giản hóa các thủ tục và tháo gỡ những khó khăn trong chính sách của cả hai nước nhằm hấp dẫn hơn nữa các nhà đầu tư. Theo thoả thuận tại cuộc họp UBHH lần thứ 6 thì hiện nay hai bên đã thúc đẩy lĩnh vực đầu tư chế biến lương thực thực phẩm vào Việt Nam nhưng chưa nhiều. Kể từ năm 1999 đến nay, Thái Lan có 1 dự án chế biến thực phẩm, 3 dự án chế biến lương thực trong số 31 dự án đầu tư vào Việt Nam.
2. Một số hợp tác khác:
Về công tác xúc tiến thương mại chung, phía Thái Lan hàng năm có tài trợ cho Việt Nam 4 gian hàng, dự kiến tài trợ này sẽ tiếp tục đến năm 2003. Các cuộc triển lãm này đang được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm và hưởng ứng. Phía Thái Lan đã tích cực chuyển cho Việt Nam danh mục 19 mặt hàng trong chương trình ưu đãi AISP nhằm khuyến khích Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng này vào Thái với mức ưu đãi thuế nhập khẩu từ 0 đến 5%, có hiệu lực từ 1/1/2002, trong khi đó, 5 nước ASEAN cũ còn lại vẫn chưa chuyển danh sách này cho Việt Nam.
3. Những kiến nghị tại cuộc họp UBHH lần thứ 7
3.1. Hai bên tích cực hợp tác trong việc mở rộng thị trường thứ ba cho hàng của mỗi nước thông qua việc thúc đẩy hoạt động của Tiểu ban Thương mại và Văn phòng Thương vụ của mỗi bên.
3.2. Tìm cách phát huy hơn nữa dạng hợp tác quốc tế gạo, mở ra thêm nhiều mặt hàng khác với yêu cầu giữa ổn định và tăng gia quốc tế.
3.2. Hai bên phối hợp tổ chức các cuộc seminars “Vietnam-Thailand Partnerrship” ở mỗi nước nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gặp gỡ và trao đổi cơ hội ký kết hợp đồng mua bán. Đề nghị phía Thái Lan hỗ trợ Việt Nam về kinh phí và tổ chức để Việt Nam giới thiệu chính sách xuất nhập khẩu và đầu tư của Việt Nam cho các doanh nghiệp Thái Lan.
3.3. Đề nghị phía Thái Lan hỗ trợ Việt Nam đưa hàng lên triển lãm và bán ở các tỉnh biên giới Thái-Lào, Thái-Minama.
| KT.BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.