UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 171/BC-UBTVQH12 |
Hà Nội, ngày 6 tháng 11 năm 2008 |
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên cơ sở Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội đã thảo luận ở Tổ (ngày 17 tháng 10) và tại Hội trường (trong hai ngày 28 và 29 tháng 10) về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2008, phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009. Căn cứ ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan của Quốc hội phối hợp với các cơ quan của Chính phủ nghiên cứu để chuẩn bị báo cáo giải trình, tiếp thu và dự thảo Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2009. Ngày 5 tháng 11 năm 2008, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp gửi dự thảo Nghị quyết xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội.
Sau khi thống nhất với Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc hội một số vấn đề kinh tế-xã hội và giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về dự thảo Nghị quyết như sau:
Đại đa số ý kiến đều biểu thị sự nhất trí cao với các nội dung được nêu trong Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và các báo cáo khác. Các đại biểu cũng đã nêu nhiều ý kiến đánh giá những cố gắng, tiến bộ của nền kinh tế cũng như sự chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành. Nhiều ý kiến phân tích, góp ý sâu sắc những mặt còn hạn chế, yếu kém với tinh thần thẳng thắn, trách nhiệm, xây dựng vào việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 2008 theo Nghị quyết của Quốc hội. Ví dụ trong lĩnh vực đầu tư, trong thực hiện các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường,... Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành cần nghiêm túc tiếp thu các ý kiến xác đáng của đại biểu Quốc hội để rút kinh nghiệm cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm 2009. Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc hội một số vấn đề lớn như sau:
A. VỀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2008
Đồng tình với nhiều ý kiến đại biểu, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, ngay từ khi xuất hiện những dấu hiệu không bình thường về tài chính, kinh tế, tiền tệ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nắm sát tình hình, có những kết luận sát, đúng và đưa ra định hướng điều chỉnh bổ sung về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho năm 2008, có tính đến những vấn đề cần phải chuẩn bị cho một số năm tiếp theo trong tình hình lạm phát cao, kinh tế thế giới và trong nước tăng trưởng chậm lại.
Chính phủ đã kịp thời đưa ra 8 nhóm giải pháp phù hợp, đồng thời chỉ đạo kiên quyết, các Bộ ngành, các địa phương, các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước đã nghiêm chỉnh thực hiện.
Cùng với Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, nhiều đại biểu Quốc hội đã chủ động nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp được Chính phủ tiếp thu. Chính phủ cũng sớm có các hoạt động phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhiều tổ chức thành viên của Mặt trận để động viên mọi tầng lớp trong xã hội cùng góp sức với Nhà nước tổ chức triển khai thực hiện. Các phương tiện thông tin đại chúng và các cơ quan chức năng về tuyên truyền đã phát huy trách nhiệm, tăng cường các hoạt động thông tin, tuyên truyền với định hướng đúng, góp phần quan trọng tạo sự đồng thuận trong xã hội. Một số kết quả nổi bật đã đạt được là:
- Tốc độ lạm phát và tốc độ tăng giá đã được kìm giữ, có xu hướng giảm dần trong điều kiện cuộc khủng hoảng tài chính thế giới ngày càng trầm trọng và kinh tế toàn cầu giảm sút nhanh và rõ rệt.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm so với năm 2007 nhưng vẫn duy trì ở mức khá cao trong điều kiện có rất nhiều khó khăn. Các cân đối vĩ mô cơ bản được kiểm soát, ổn định, không để xảy ra biến động lớn.
- Các biện pháp an sinh xã hội đạt kết quả rõ rệt do nỗ lực của toàn xã hội cùng với sự cố gắng rất lớn của Đảng và Nhà nước trong việc huy động nhiều nguồn lực để hỗ trợ cho các đối tượng chịu tác động của lạm phát hoặc ở những vùng chịu hậu quả nặng nề của thiên tai, dịch bệnh.
- Chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Môi trường đầu tư tiếp tục duy trì theo hướng tích cực.
2. Về một số mặt hạn chế, yếu kém
- Về chính sách tiền tệ: nhiều ý kiến cho rằng, thời gian qua thực hiện chính sách tiền tệ có lúc mang tính cào bằng, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do khó tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, để tập trung ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, chúng ta phải thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đang có xu hướng tăng cao do sự nới lỏng tiền tệ trong nhiều năm gây ra. Tuy nhiên, quá trình thực hiện có mặt chưa hợp lý, chưa có sự chọn lọc, mà còn thực hiện đồng loạt như ý kiến của nhiều đại biểu nêu. Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới, Chính phủ cần chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt, cơ cấu tín dụng phải phù hợp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu… Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, vấn đề này xin được thể hiện trong mục 3, phần II của dự thảo Nghị quyết.
- Về các doanh nghiệp nhà nước: Nhiều ý kiến đề nghị cần chấn chỉnh và tăng cường quản lý sử dụng vốn nhà nước, hoạt động đầu tư của các tập đoàn và các Tổng công ty nhà nước.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, đây là những ý kiến xác đáng. Các doanh nghiệp nhà nước nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước có vai trò rất lớn trong nền kinh tế đã có đóng góp trong ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiềm chế lạm phát và bảo đảm ổn định xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của không ít doanh nghiệp hiệu quả thấp, nhất là trong đầu tư, sử dụng các nguồn vốn của nhà nước. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu, đề nghị Chính phủ cần đánh giá toàn diện và có báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2009 về hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
- Về vấn đề đầu tư xây dựng cơ bản: Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội bày tỏ trăn trở, bức xúc về những yếu kém trong đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước như trong thảo luận tại Hội trường về chuyên đề giám sát đầu tư xây dựng cơ bản ngày 5/11/2008 và đề nghị Quốc hội cần có Nghị quyết riêng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với ý kiến đại biểu về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, cơ cấu lại nguồn vốn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch và quyết định đầu tư; xử lý dứt điểm nợ đọng xây dựng cơ bản… và xin được tiếp thu, thể hiện như trong mục 4, phần II của dự thảo Nghị quyết.
- Về vấn đề thu hút và giải ngân vốn đầu tư nước ngoài, các đại biểu đều đề nghị cần có chiến lược dài hạn để thu hút đầu tư FDI nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, tận dụng thời cơ các nước trong khu vực đang gặp khó khăn do khủng hoảng kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững. Tiếp thu ý kiến đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần chú trọng công tác định hướng, hướng dẫn gắn với kiểm tra, đánh giá thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ và theo ngành, phù hợp với định hướng chung của cả nước. Ban hành cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến gắn với các dự án đầu tư lớn từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn và hỗ trợ nông dân: Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị Chính phủ có kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực tế Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Chính phủ đã có Nghị quyết về Chương trình hành động để thực hiện nhiệm vụ như đại biểu đã nêu. Vì vậy, năm 2009 và các năm tiếp theo cần tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhà nước và thu hút các nguồn vốn khác cho nông nghiệp, nông thôn, có chính sách mạnh mẽ khuyến khích đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, thực hiện chính sách hỗ trợ nông nghiệp và nông dân phù hợp với cam kết WTO.
- Về vấn đề xã hội, môi trường: Các ý kiến của đại biểu Quốc hội tập trung nêu những vấn đề bức xúc và đề cập đến tính xác thực của một số chỉ tiêu, như: Tỷ lệ hộ nghèo, nhất là ở khu vực miền núi, nông thôn trong thực tế cao hơn con số báo cáo do giá cả tăng cao, chuẩn nghèo hiện tại không còn phù hợp. Chất lượng y tế tuyến cơ sở còn yếu kém, nhất là ở các vùng miền núi, dân tộc thiểu số cần được tăng cường cả về con người và cơ sở vật chất. Tình trạng tội phạm trẻ em có chiều hướng gia tăng. Tình trạng ô nhiễm môi trường, từ môi trường không khí, môi trường nước, tới môi trường đất đai,... trở nên nghiêm trọng tới mức đáng báo động song các biện pháp xử lý vi phạm chưa đủ mạnh và triệt để. Tình trạng quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm lỏng lẻo. Cải cách hành chính còn kém hiệu quả: việc xây dựng thể chế còn chậm, chất lượng chưa cao, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa công khai, minh bạch, cơ chế một cửa vẫn chưa phát huy hiệu quả.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, những vấn đề trên đã được các vị đại biểu Quốc hội đề cập trong nhiều kỳ họp, mặc dù đã có những chuyển biến nhất định, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của cử tri và xã hội. Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương theo chức năng cần có những giải pháp quyết liệt hơn nữa để giải quyết những vấn đề bức xúc trên.
- Về sự điều hành của bộ máy hành chính từ trung ương đến cơ sở: Có ý kiến cho rằng, trong một số thời điểm, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa thật nhịp nhàng, một số quyết định chưa kịp thời, chưa thật sát thực tế. Một số ý kiến đại biểu Quốc hội đánh giá, công tác dự báo vĩ mô, dự báo chiến lược về tình hình kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa sát với tình hình thực tế, nhất là dự báo về giá dầu, giá và sản lượng lúa gạo,… Trong chỉ đạo, điều hành vẫn còn lúng túng và sử dụng nhiều biện pháp hành chính trong quản lý kinh tế, cần đánh giá lại năng lực, trách nhiệm của một số cơ quan tham mưu.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần có giải pháp sớm khắc phục hạn chế, yếu kém trong công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp, trong công tác dự báo, bảo đảm chủ động, linh hoạt và chính xác hơn.
B. VỀ DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội nhất trí với Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các cơ quan hữu quan về dự báo tình hình thế giới và trong nước. Nhiều đại biểu đã phân tích sâu về bối cảnh kinh tế quốc tế bị khủng hoảng và ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu kỹ lưỡng để có phương án chỉ đạo, điều hành phù hợp.
Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, từ khi khai mạc kỳ họp đến nay với khoảng thời gian không dài (mới được hơn 20 ngày), nhưng diễn biến của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới diễn ra nhanh, ngày càng lan rộng và vượt ra ngoài tầm dự báo. Để đối phó, các tổ chức tài chính thế giới, Chính phủ nhiều nước đã phải áp dụng các biện pháp kiên quyết, đặc biệt nhằm ổn định tình hình của các hệ thống tài chính - ngân hàng, kích thích thị trường, ngăn chặn sự sút giảm mạnh của nền kinh tế.
Trong bối cảnh đó, nền kinh tế nước ta cũng đã bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng sẽ giảm, giá một số mặt hàng chỉ bằng khoảng 40%-50% so với thời điểm cao nhất của năm 2008, khả năng giải ngân của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như việc huy động vốn từ kênh đầu tư gián tiếp (FII) và nguồn kiều hối bị ảnh hưởng. Cùng với những khó khăn hiện hữu trong nước, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới kéo theo sự suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho các khó khăn có thể gay gắt hơn, sức mua trên thị trường bị giảm sút lớn, các doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn do việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt còn tiếp tục (do chúng ta vẫn phải duy trì mục tiêu tiếp tục kiềm chế lạm phát).
Từ tình hình trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, trong việc xây dựng các chỉ tiêu kinh tế-xã hội của năm 2009 phải tính đến yếu tố mới này để chủ động xây dựng phương án hạn chế tác động tiêu cực ở mức thấp nhất.
Đa số ý kiến các vị đại biểu Quốc hội đều thống nhất nhận định kiềm chế lạm phát trong năm 2009 vẫn là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm hàng đầu để ổn định kinh tế vĩ mô. Tiếp theo, cần phải bảo đảm đời sống cho đại bộ phận nhân dân đã gặp rất nhiều khó khăn do tình hình giá cả tăng cao, thu nhập thực tế giảm sút cũng như đại bộ phận nông dân bị ảnh hưởng do tăng giá vật tư, nguyên, nhiên liệu đầu vào và thiên tai, dịch bệnh. Để ngăn ngừa khả năng suy giảm của nền kinh tế, bên cạnh việc tăng cường khả năng xuất khẩu, cần chú trọng có những giải pháp kích cầu để phát triển thị trường trong nước. Khác với các năm kinh tế bình thường, lần đầu tiên trong vòng nhiều năm, tháng 10 năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng giảm so với tháng 9; tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) có xu hướng giảm so với những tháng cuối năm 2007, đó là tín hiệu cảnh báo cần có những biện pháp theo dõi chặt chẽ và xử lý linh hoạt để tránh tình trạng chỉ tập trung vào kiềm chế lạm phát mà không tính đến các yếu tố dẫn đến suy giảm nền kinh tế.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, cần tiếp tục các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nhưng phải duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý nhằm bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động, đồng thời chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế, thực hiện có hiệu quả hơn các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội. Đây là những vấn đề rất quan trọng cần được thể hiện trong mục tiêu để tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
3.1. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trong Báo cáo trình Quốc hội, Chính phủ đề nghị phương án mức tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 khoảng 7%. Đa số ý kiến đại biểu đều cho rằng tốc độ tăng GDP là chỉ tiêu mang tính định hướng và nhất trí với phương án năm 2009 nên ở mức từ 6,5%-7%. Một số ý kiến khác đề nghị nên lấy một số cụ thể là 6%, 6,5% hoặc 7% để có định hướng cụ thể trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển. Có ý kiến đề nghị mức 6%-6,5% hoặc cá biệt có ý kiến thấp hơn 6%. Nhiều ý kiến đề nghị cần làm rõ cơ sở khoa học của việc xác định chỉ tiêu tăng trưởng.
Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, tăng trưởng GDP là một chỉ tiêu tổng hợp, mang tính định hướng nhưng là căn cứ quan trọng để xác định các chính sách và phân bổ nguồn lực, để tính toán các chỉ tiêu khác trong kế hoạch phát triển, là cơ sở quan trọng trong điều hành kinh tế-xã hội của đất nước. Xác định mức cụ thể của tốc độ tăng trưởng kinh tế trong Nghị quyết nhằm phấn đấu quyết liệt hơn, bảo đảm mục tiêu về tăng trưởng không chỉ cho năm 2009 mà còn là cơ sở cho năm 2010 để bảo đảm hoàn thành toàn diện kế hoạch 5 năm (2006-2010). Trên cơ sở phân tích tình hình ở trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị: tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 khoảng 6,5% để trong trường hợp kinh tế thế giới biến động khó lường, Chính phủ có điều kiện điều hành linh hoạt hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là nếu tăng trưởng ở mức quá thấp thì sẽ ảnh hưởng lớn đến việc làm, thu nhập, đời sống của người lao động và đến việc thực hiện nhiều chỉ tiêu kinh tế-xã hội. Trong trường hợp điều kiện thuận lợi (các giải pháp của các nước thực hiện hỗ trợ khắc phục khủng hoảng tài chính-kinh tế thành công, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường xuất khẩu của nước ta, đồng thời 8 nhóm giải pháp tiếp tục phát huy hiệu quả cao hơn) thì phấn đấu tăng trưởng cao hơn 6,5%. Như vậy, đề nghị Chính phủ tính cân đối ngân sách và các chỉ tiêu khác trên cơ sở tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,5% để trình Quốc hội xem xét, quyết định.
3.2. Về chỉ số giá tiêu dùng
Nhiều ý kiến đồng ý với việc xác định chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng nên ở mức dưới 15%; Ý kiến khác cho rằng chỉ tiêu này là khó khả thi do những tác động của tình hình thế giới đến nước ta. Có ý kiến đề nghị cần có giải pháp hiệu quả với quyết tâm cao để đến năm 2010 giảm lạm phát xuống còn một con số hoặc ở mức cụ thể là 9-10%.
Có ý kiến đề nghị Quốc hội không nên đưa chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng vào Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, mà nên để là một mục tiêu phấn đấu của Chính phủ. Có ý kiến khác đề nghị nên đưa chỉ tiêu này thành chỉ tiêu hàng đầu, quan trọng nhất.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được báo cáo như sau:
Năm 2007 và năm 2008 là hai năm liên tiếp tốc độ tăng giá tiêu dùng ở nước ta ở mức 2 con số, trong đó năm sau cao gần gấp hai lần so với năm trước. Tình hình trên đã gây tác động xấu đến sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của đại đa số nhân dân, nhất là người thu nhập thấp, làm công hưởng lương. Giữa năm 2008, Quốc hội thông qua Nghị quyết điều chỉnh mục tiêu phát triển, trong đó vấn đề kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Do vậy, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong 6 tháng vừa qua, tổng phương tiện thanh toán trên thị trường chỉ tăng ở mức dưới 10% so với 31/12/2007. Trong những tháng gần đây, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đã giảm, cá biệt tháng 10 giảm 0,19% so với tháng 9. Nếu tiếp tục giảm chỉ số giá tiêu dùng ở mức 1 con số sẽ buộc phải tiếp tục thắt chặt tín dụng đối với các doanh nghiệp, giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng nghĩa với việc giảm việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động.
Với phân tích như vậy, để vừa phải tiếp tục kiềm chế lạm phát, nhưng vẫn bảo đảm sản xuất phát triển ở mức hợp lý, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội chấp thuận đề nghị của Chính phủ với chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 ở mức dưới 15%.
3.3. Về tổng mức đầu tư toàn xã hội
Báo cáo của Chính phủ đề nghị tổng mức đầu tư toàn xã hội khoảng 40% GDP. Có ý kiến cho rằng, tổng đầu tư toàn xã hội bằng 40% GDP là cao. Có ý kiến đề nghị, phải tăng đầu tư cho khu vực nông, lâm, ngư nghiệp; việc xác định chỉ tiêu giá trị tăng thêm của khu vực này là 3% (so với năm 2008 là 5,1%) là thấp, không phù hợp với chủ trương của Đảng được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, khoá X.
Đây là mức huy động cao so với nhiều nước đang phát triển trên thế giới; chỉ số ICOR của Việt Nam mấy năm gần đây không giảm, do vậy phải tập trung các biện pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư. Đây còn là biện pháp thiết thực để kiềm chế lạm phát. Tình hình sản xuất của năm 2009 còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu tổng quát điều hành nền kinh tế vẫn phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, do điều chỉnh tốc độ tăng GDP giảm (khoảng 6,5%) nên phải giảm tổng mức đầu tư để bảo đảm ổn định vĩ mô.
Do thay đổi cơ cấu chi ngân sách nhà nước theo hướng tăng chi cho bảo đảm an sinh xã hội, nên vốn đầu tư trong cân đối ngân sách nhà nước ít, Nhà nước phải tập trung cho các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, quan trọng, có hiệu quả rõ rệt và các yêu cầu bức thiết khác nên phải huy động các nguồn lực có sự bảo đảm của Nhà nước để thực hiện mục tiêu trọng yếu trong đầu tư .
Với cách đặt vấn đề như vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2009 là 39,5% GDP, tương đương 715 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn trái phiếu Chính phủ huy động từ 30 nghìn tỷ đồng tăng lên 36 nghìn tỷ đồng, đồng thời yêu cầu Chính phủ phải có các biện pháp chỉ đạo thật quyết liệt về thời điểm, quy mô phát hành và giải ngân hết, kịp thời nguồn vốn này.
3.4. Về tốc độ tăng xuất khẩu
Trong Báo cáo trình Quốc hội, Chính phủ đề nghị mức tăng xuất khẩu 18% so với năm 2008. Trong quá trình thảo luận, nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc lại việc đưa ra chỉ tiêu tốc độ tăng xuất khẩu 18% vì trên thực tế, diễn biến tình hình xuất khẩu những tháng cuối năm 2008 có xu hướng giảm dần cả về lượng, cả về giá (do giá thế giới đã giảm). Bên cạnh đó, như đã phân tích ở trên, nhu cầu tiêu dùng của các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Mỹ và Châu Âu cũng sẽ giảm sút do tác động của khủng hoảng kinh tế, nên cũng khó tăng khối lượng xuất khẩu. 9 tháng đầu năm 2008, nếu trừ yếu tố tăng giá, thì thực chất xuất khẩu của chúng ta cũng chỉ tăng 14,8%. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội chấp thuận chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2009 tăng ở mức 13%.
3.5. Về tạo việc làm, tỷ lệ hộ nghèo, các vấn đề xã hội và môi trường khác
Qua thảo luận, có ý kiến tán thành về chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 12%. Tuy nhiên nhiều ý kiến khác cho rằng không khả thi, cần xem xét lại; nên xác định rõ tiêu chí được xếp vào diện hộ nghèo ở nông thôn là 400.000đ/người/hộ; ở thành thị là 600.000đ/người/hộ.
Có ý kiến cho rằng, việc xác định chỉ tiêu về tạo việc làm mới cho 1,7 triệu lao động là không khả thi vì hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công.
Một số ý kiến nhận thấy, các chỉ tiêu về môi trường, giảm tỷ lệ sinh; cung cấp nước sạch,... chưa hợp lý, rất khó thực hiện như: chỉ tiêu về xử lý chất thải rắn y tế là 75%; chỉ tiêu về cung cấp nước sạch cho 79% dân số nông thôn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, đây là những chỉ tiêu góp phần nâng cao chất lượng sống của nhân dân và bảo đảm cho sự phát triển bền vững nhưng phụ thuộc nhiều vào tổng mức đầu tư của xã hội. Trong điều kiện tốc độ tăng GDP giảm, sản xuất gặp khó khăn, chúng ta đã tăng mức đầu tư từ trái phiếu Chính phủ để thực hiện các chương trình mục tiêu quan trọng, do đó cần phấn đấu để đạt được các chỉ tiêu trên. Đồng thời, đề nghị Chính phủ cần sớm ban hành chuẩn mới đối với các hộ nghèo để có cơ chế, chính sách phù hợp và phải tập trung trong chỉ đạo thực hiện để đạt được các chỉ tiêu trên.
4. Về những nhiệm vụ, giải pháp cơ chế, chính sách chủ yếu trong năm 2009
Đa số ý kiến tán thành các nhóm nhiệm vụ, giải pháp do Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trình, các kiến nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế, Hội đồng dân tộc, và các Ủy ban khác của Quốc hội trong các báo cáo giám sát chuyên đề, báo cáo thẩm tra. Các ý kiến tham gia cụ thể của các đại biểu Quốc hội vào các giải pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và thể hiện trong dự thảo Nghị quyết.
Ngày 05 tháng 11 năm 2008, theo sự chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn thư ký kỳ họp đã gửi dự thảo Nghị quyết để xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Đến cuối giờ chiều ngày 5/11, Đoàn thư ký kỳ họp đã nhận được 368 bản góp ý. Sau khi tổng hợp ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin giải trình, tiếp thu như sau:
Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội đều tán thành với những nội dung và thứ tự sắp xếp trong mục tiêu tổng quát đã được thể hiện trong dự thảo Nghị quyết gửi xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, một số đại biểu cũng tham gia góp ý cụ thể về từ ngữ, kỹ thuật văn bản để mục tiêu tổng quát dễ hiểu và súc tích hơn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và thể hiện như sau:
Tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Về chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
Về vấn đề này, ý kiến các đại biểu Quốc hội tập trung vào ba hướng lựa chọn: tốc độ tăng trưởng từ 6%-6,5%, 6,5% và 6,5%-7%. Như vậy, đa số các đại biểu Quốc hội đều thống nhất với giải trình tại phần I của Báo cáo, nhưng còn khác nhau ở phần thể hiện. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị chọn mức tăng trưởng năm 2009 là khoảng 6,5% để tạo điều kiện cho việc xác định các cân đối chỉ tiêu vĩ mô và linh hoạt trong điều hành; đồng thời tùy tình hình diễn biến thực tế, Chính phủ chủ động có giải pháp đối phó, nên xin được thể hiện như trong dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Như đã giải trình ở phần I của Báo cáo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giữ chỉ tiêu này như Chính phủ trình là dưới 15% và thể hiện như trong dự thảo Nghị quyết.
4. Về tổng mức đầu tư toàn xã hội
Tiếp thu ý kiến đại biểu tại thảo luận tổ và Hội trường, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin thể hiện trong dự thảo Nghị quyết tổng mức đầu tư toàn xã hội ở mức 39,5% GDP.
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm tổng phương tiện thanh toán cũng như giảm tỷ lệ đầu tư toàn xã hội, để bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý đề nghị Quốc hội cho giữ mức huy động trái phiếu Chính phủ năm 2009 là 36 nghìn tỷ đồng và giao Chính phủ cần đến đâu phát hành đến đó, tập trung chỉ đạo để giải ngân kịp thời nguồn vốn này.
Có ý kiến đề nghị để giảm nhập siêu phải giữ tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 cao hơn 13%. Ý kiến khác đề nghị, do thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị hạn chế, nên đề nghị chỉ tiêu này ở mức 12%.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phân tích kỹ vấn đề này ở phần I của Báo cáo, đề nghị Quốc hội cho giữ chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2009 tăng 13%.
6. Về các chỉ tiêu xã hội và môi trường
Sau khi tổng hợp và chuyển ý kiến đại biểu Quốc hội đến các cơ quan của Chính phủ, Chính phủ tiếp tục đề nghị giữ như trong báo cáo đã trình Quốc hội ngày 16 tháng 10 năm 2008. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, nếu thực hiện được như các chỉ tiêu của Chính phủ trình là một cố gắng lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao nỗ lực phấn đấu của Chính phủ và xin được thể hiện như trong dự thảo Nghị quyết và trân trọng đề nghị các vị đại biểu Quốc hội chấp nhận.
7.1. Có ý kiến đề nghị thể hiện lại đoạn 1, mục 1, phần II cho gọn và chặt chẽ hơn.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin được thể hiện lại đoạn này như sau: “Theo dõi chặt chẽ, nâng cao chất lượng phân tích và dự báo tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là những biến động về tình hình kinh tế, tài chính thế giới, chủ động xây dựng các phương án ứng phó, hạn chế tác động bất lợi của khủng hoảng từ bên ngoài đến hệ thống tài chính, ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế”.
7.2. Có ý kiến đề nghị bỏ câu về nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại cổ phần về vấn đề lãi suất cho vay và lãi suất huy động tại phần cuối đoạn 2 của mục 1, phần II- Một số nhiệm vụ chính.
Về vấn đề này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã giải trình ở mục 2 phần I của Báo cáo. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, vấn đề này xin được thể hiện lại như sau: “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các dự án có hiệu quả”.
7.3. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về phát huy vai trò của khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế-xã hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin bổ sung vào mục 2, phần II- Một số nhiệm vụ chính như sau: “Có chính sách khuyến khích đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh để tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm và bảo vệ môi trường”.
7.4. Về vấn đề hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhiều đại biểu có ý kiến về xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế nước ta để phát huy tốt nhất lượng vốn và tài sản lớn của nhà nước đã giao cho các đơn vị. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin được thể hiện vào dự thảo Nghị quyết như sau: “Cần khẳng định vị trí chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân để có các chính sách, biện pháp quản lý phù hợp”.
7.5. Về đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội thảo luận tại Hội trường ngày 5/11/2008, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin bổ sung các nội dung: “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 36/2004/NQ-QH11 của Quốc hội, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về xây dựng, đấu thầu, đất đai, ngân sách nhà nước; ban hành các văn bản hướng dẫn kịp thời, bảo đảm thống nhất, đồng bộ, không trùng chéo, mâu thuẫn; quy định chế tài xử lý đủ mạnh, nghiêm minh... Coi trọng và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, rà soát để hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cả nước và các quy hoạch khác, gắn quy hoạch đầu tư với các quy hoạch có liên quan... Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để kịp thời ngăn ngừa, sửa chữa sai phạm, chống lãng phí, thất thoát” vào mục 3, phần II của Báo cáo này và thể hiện như trong dự thảo Nghị quyết.
7.6. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về vấn đề bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin bổ sung một đoạn vào mục 10, phần II như sau: “Bảo đảm trật tự an toàn giao thông, giảm số vụ tai nạn, số người chết và bị thương do tai nạn giao thông. Xử lý có hiệu quả vấn đề ùn tắc giao thông ở các thành phố lớn”.
*
* *
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Ngoài những vấn đề tiếp thu, giải trình trên đây, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan rà soát, chỉnh lý về từ ngữ, kỹ thuật văn bản và được thể hiện như trong Dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội.
Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu về một số vấn đề kinh tế-xã hội và Dự thảo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009. Ủy ban thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, thông qua Dự thảo Nghị quyết sau khi đã được tiếp thu chỉnh lý nói trên.
Nơi nhận: |
TM.
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.