BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 6059/BC-BNN-PC |
Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2010 |
VỀ TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT NĂM 2010 VÀ TRIỂN KHAI ĐỀ ÁN THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 1987/QĐ-TTG NGÀY 30/11/2009 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Thực hiện quy định tại Điều 20 Thông tư số 03/2010/TT-BTP ngày 03 tháng 03 năm 2010 hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và công văn số 3071/BTP-VĐCXDPL ngày 31 tháng 8 năm 2010 của Bộ Tư pháp về việc đôn đốc thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo như sau:
I. TÌNH HÌNH THI HÀNH PHÁP LUẬT NĂM 2010
1. Cơ sở đánh giá tình hình thi hành pháp luật
1.1 Các lĩnh vực tiến hành kiểm tra.
Năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tiến hành kiểm tra tình hình thi hành pháp luật ở hầu hết tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cụ thể như sau:
- Về thủy sản: kiểm tra việc thực hiện các quy định đăng ký, đăng kiểm tàu cá, cấp chứng chỉ thuyền trưởng, máy trưởng, an toàn tàu cá, cảng cá, khu neo đậu tránh bão, kiểm tra về việc thực hiện cấm sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác thủy sản trên các vùng biển Nam Bộ, cấp giấy phép khai thác thủy sản, xây dựng bản đồ phân vùng, phân tuyến.
- Thủy lợi: kiểm tra tình hình vi phạm và công tác xử lý vi phạm, chính sách miễn giảm thủy lợi phí, phân cấp công trình thủy lợi, xây dựng định mức kinh tế, kỹ thuật trong quản lý khai thác.
- Lâm nghiệp: Kiểm tra các vi phạm; xử phạt vi phạm hành chính; xác minh nguồn gốc lâm sản lưu thông; kiểm tra việc gây nuôi động vật hoang dã; quản lý nguồn thu từ xử lý VPHC; kiểm tra công tác thống kê, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; việc thực hiện trách nhiệm của chủ rừng theo quy định của pháp luật; Kiểm tra tình hình cấp phát, quản lý, sử dụng vũ khí và công cụ hỗ trợ của đơn vị được kiểm tra theo quy định của pháp luật; công tác tập huấn, huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí và công cụ hỗ trợ cho công chức Kiểm lâm; kiểm tra công tác giao, khoán bảo vệ rừng.
- Bảo vệ thực vật: kiểm tra việc cấp, gia hạn chứng chỉ hành nghề sản xuất và buôn bán thuốc bảo vệ thực vật, việc tuân thủ các điều kiện sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói, kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật.
- Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối: kiểm tra việc thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn; Thông tư số 116/2006/TT-BNN về việc công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống, nghề truyền thống và kiểm tra việc thực hiện chính sách trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010.
- Thú y: kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thú y trong sản xuất kinh doanh thuốc thú y và việc bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm tại một số cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm.
- Hợp tác xã và phát triển nông thôn: kiểm tra việc thực hiện Luật Hợp tác xã, chương trình giảm nghèo, chương trình 135 giai đoạn II, chương trình bố trí dân cư theo Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg .
- Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản: Quy định trong quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm nông lâm thủy sản, công tác kiểm nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản, quy định về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản, các quy định về kiểm tra chứng nhận chất lượng vệ sinh an toàn hàng hóa thủy sản, đánh giá và chỉ định phòng kiểm nghiệm chất lượng thủy sản, kiểm tra giám sát VSATTP trước khi đưa ra thị trường .v.v.
- Trồng trọt: kiểm tra việc chấp hành quy định về giấy phép sản xuất, kinh doanh giống cây trồng
- Về kế hoạch và tài chính: kiểm tra thực hiện quy định về quản lý đầu tư và xây dựng, công khai phân bổ vốn đầu tư, tổng mức vốn đầu tư, tổng dự toán, quyết toán vốn đầu tư.
- Các công tác khác: Kiểm tra công tác bảo quản hồ sơ, tài liệu, tiếp nhận xử lý văn bản đến và phát hành văn bản đi. Kiểm tra việc tổ chức thực hiện công tác pháp chế tại các Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tình hình triển khai thực hiện Đề án về tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho nông dân được ban hành kèm theo Quyết định số 554/QĐ-TTg .
1.2. Phương pháp kiểm tra.
Ngày 10 tháng 02 năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có công văn số 1152/BNN-PC hướng dẫn các đơn vị thuộc Bộ thực hiện kiểm tra thực hiện pháp luật năm 2010. Các đơn vị lập kế hoạch kiểm tra thực hiện pháp luật của đơn vị trên cơ sở lựa chọn kiểm tra việc thực hiện một nhóm các văn bản QPPL điều chỉnh về cùng một vấn đề hoặc kiểm tra việc thực hiện một văn bản QPPL cụ thể trong lĩnh vực quản lý của mình và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Việc theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được tiến hành chủ yếu bằng hình thức kiểm tra tình hình thi hành pháp luật thông qua các đoàn kiểm tra tại các địa phương hoặc kiểm tra thông qua báo cáo của đối tượng kiểm tra, trong đó chủ yếu là hình thức tổ chức đoàn kiểm tra tại các địa phương, đơn vị. Nhiều đơn vị trong Bộ đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện pháp luật bằng cách kết hợp với các đoàn thanh tra, kiểm tra lồng ghép trong các đoàn công tác của đơn vị.
1.3. Phạm vi kiểm tra.
Hàng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đều tiến hành kiểm tra thực hiện pháp luật tại nhiều địa phương trong cả nước, không chỉ kiểm tra và nghe báo cáo tại các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương mà còn trực tiếp kiểm tra tới các chủ thể là đối tượng tác động của văn bản.
2. Đánh giá những nội dung cụ thể về thi hành pháp luật
2.1. Tình hình ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành; văn bản chỉ đạo, đôn đốc, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và của cơ quan nhà nước cùng cấp có thẩm quyền
- Tiếp tục triển khai xây dựng 05 dự án luật là Luật Thú y, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luật Thủy lợi, Luật Nông nghiệp, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thủy sản. Trong đó Luật Thủy lợi đang hoàn thiện dự thảo 1, dự án Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Luật Thú y đang hoàn thiện dự thảo 2. Đối với dự án Luật Nông nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thủy sản đang hoàn thiện hồ sơ đăng ký chương trình xây dựng Luật của Quốc hội khóa XIII.
- Đã trình Chính phủ 12 dự thảo Nghị định, Chính phủ đã xem xét ban hành 10 Nghị định; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 12 văn bản.
- Bộ đã ban hành theo thẩm quyền là 61 văn bản (tính đến ngày 31/10/2010), cụ thể: thú y 11 văn bản; lâm nghiệp 03 văn bản; bảo vệ thực vật 07 văn bản; trồng trọt 12 văn bản; thủy lợi 02 văn bản; chăn nuôi 04 văn bản; quản lý chất lượng nông lâm thủy sản 06 văn bản; thủy sản 06 văn bản và các lĩnh vực khác 11 văn bản.
Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp tục xây dựng các chương trình, đề án văn bản quy phạm pháp luật nhất là các chương trình, đề án, văn bản triển khai Nghị quyết 03/NQ-CP ngày 15/01/2010 Về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010, Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 6/4/2010 của Chính phủ Về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010, Nghị quyết 24/2008/NQ-CP của Chính phủ Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, các văn bản hướng dẫn thi hành các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã rà soát toàn bộ các quy định của các Luật, Pháp lệnh, Nghị định và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến lĩnh vực quản lý của Bộ nhằm xác định các văn bản quy phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của Bộ phải ban hành để đưa vào kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ năm 2011 và các năm tiếp theo, cụ thể là 57 văn bản, bao gồm: trồng trọt 03 văn bản; bảo vệ thực vật 05 văn bản; thủy sản 11 văn bản; lâm nghiệp 17 văn bản; đê điều 02 văn bản; quản lý chất lượng 12 văn bản; chăn nuôi 06 văn bản; thanh tra 01 văn bản.
b. Tình hình ban hành văn bản của các địa phương để hướng dẫn các văn bản của Trung ương.
Qua kiểm tra tại một số địa phương cho thấy, phần lớn các địa phương, đơn vị ở cấp tỉnh trong phạm vi thẩm quyền của mình đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản QPPL của Trung ương hoặc các văn bản hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nhìn chung các văn bản đều được ban hành kịp thời, chất lượng hướng dẫn cao, nội dung hướng dẫn phù hợp, không trái hoặc lạm quyền so với văn bản triển khai thực hiện, ví dụ ở một số lĩnh vực:
- Lĩnh vực hợp tác xã và PTNT, kiểm tra 06 tỉnh đã ban hành 20 văn bản hướng dẫn.
- Lĩnh vực Bảo vệ thực vật: các chi cục đều có văn bản triển khai thực hiện Thông tư số 38/2010/TT-BNNPTNT ngày 28/6/2010 về Quản lý thuốc bảo vệ thực vật sau khi Thông tư này ra đời.
- Lĩnh vực Thủy lợi: Các địa phương đã ban hành văn bản theo yêu cầu của các cơ quan trung ương (Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính): Quyết định phê duyệt diện tích miễn thủy lợi phí; Quyết định mức thu thủy lợi phí trên địa bàn tỉnh; Chỉ thị tăng cường đổi mới nâng cao hiệu quả quản lý khai thác công trình.
- Lĩnh vực chế biến, thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối: Các văn bản ban hành chủ yếu là các quy định, quy chế công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống và nghề truyền thống và quy hoạch làng nghề.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan tham mưu xây dựng văn bản QPPL liên quan đến nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc xây dựng và ban hành văn bản thực hiện theo quy trình ban hành văn bản do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn còn ban hành nhiều văn bản theo thẩm quyền hướng dẫn, chỉ đạo sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Các Chi cục trực thuộc cũng được ủy quyền ban hành văn bản hướng dẫn về chuyên môn.
2.2. Tình hình thi hành pháp luật
2.2.1. Về Thủy sản
a. Tình hình thực hiện: Qua kiểm tra cho thấy, nhìn chung các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương cơ bản tuân thủ các quy định của pháp luật, một số địa phương trong quá trình thực hiện thấy vướng mắc đã có văn bản đề nghị cơ quan trung ương giải đáp và hướng dẫn để thực hiện.
Tuy nhiên vẫn còn một số các quy định của pháp luật không được tuân thủ hoặc mức độ tuân thủ không cao trên thực tế. Các vi phạm chủ yếu là về các quy định về quản lý chất lượng, các sản phẩm sản xuất ra không đúng chất lượng như công bố và bị xử phạt theo Nghị định số 31/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2010 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản.
Lý do: các tổ chức, cá nhân cố tình gian dối về chất lượng nhằm thu lợi bất chính và cũng do mức độ xử phạt vi phạm hành chính chưa cao, không đủ tính răn đe.
b. Một số vướng mắc:
- Vấn đề phát triển tàu cá khai thác thủy sản xa bờ và hạn chế tàu cá khai thác thủy sản ven bờ nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy sản đã được quy định trong văn bản pháp luật. Tuy nhiên, thực tế chưa có chế tài xử phạt đối với những hành vi vi phạm cũng như đối với những người chuyển đổi nghề từ khai thác thủy sản ven bờ sang nghề khác nên tình trạng số lượng tàu cá nhỏ vẫn tăng theo thời gian.
- Khoản 1 Điều 5 Nghị định 59/2005/NĐ-CP ngày 04/05/2005 quy định điều kiện sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thủy sản phải có giấy chứng nhận đăng ký tàu cá nhưng tại khoản 3 Điều 11 Nghị định số 66/2005/NĐ-CP giấy chứng nhận đăng ký tàu cá chỉ được cấp cho tàu cá có công suất máy chính từ 20CV trở lên hoặc không lắp máy có chiều dài đường nước từ 15m trở lên.
- Khoản 2 Điều 39 và khoản 3 Điều 40 Luật thủy sản chưa thống nhất với khoản 2 Điều 11 Nghị định số 66/2005/NĐ-CP. Trong Luật quy định phân cấp đăng kiểm theo chiều dài của tàu và thực hiện đăng ký theo sở hữu, trong khi đó Nghị định lại quy định đăng ký theo địa giới hành chính. Do vậy xảy ra tình trạng đăng kiểm thì do Bộ thực hiện nhưng đăng ký lại do địa phương thực hiện và ngược lại.
- Khoản 3 Điều 41 Luật thủy sản; khoản 4 Điều 14 Quyết định 20/2006/QĐ-BTS về quy chế cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá quy định “Khi tàu về cảng cá phải xuất trình với Ban quản lý cảng cá những giấy tờ sau …” trong thực tế, tàu cá ra vào cửa biển phải xuất trình với cơ quan Biên phòng, vì vậy dẫn đến tình trạng chồng chéo và gây phiền hà cho dân.
- Khoản 2 Điều 40 Luật Thủy sản quy định “phải đăng ký thuyền viên làm việc trên tàu, có sổ danh bạ thuyền viên”, nhưng thực tế rất khó triển khai vì thuyền viên làm việc trên tàu cá thường xuyên thay đổi theo từng chuyến đi biển.
2.2.2. Về Bảo vệ thực vật
a. Tình hình thực hiện: Quy kiểm tra cho thấy các Chi cục Bảo vệ thực vật đã thực hiện tốt các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật; việc cấp và gia hạn chứng chỉ hành nghề sản xuất và buôn bán thuốc bảo vệ thực vật; có hồ sơ lưu, ghi chép đầy đủ tại đơn vị.
Các Công ty sản xuất, kinh doanh thuốc Bảo vệ thực vật, về cơ bản, có đủ các điều kiện theo quy định để bảo đảm hoạt động sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói, kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật.
Các cửa hàng, đại lý buôn bán thuốc BVTV nhìn chung đều có chứng chỉ hành nghề buôn bán thuốc bảo vệ thực vật theo quy định, nhưng các điều kiện khác vẫn chưa tuân thủ theo đúng quy định, như điều kiện về kho thuốc, khoảng cách phải xa khu dân cư.
b. Một số vướng mắc
- Mức xử phạt quy định trong Nghị định số 26/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật còn thấp, chưa phù hợp với thực tế.
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra chuyên ngành bảo vệ thực vật chưa được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng như trong Luật Thanh tra 2004 khiến việc thực hiện ở dưới địa phương gặp nhiều khó khăn.
2.2.3. Về Thủy lợi, đê điều
a. Tình hình thực hiện
- Ý thức chấp hành pháp luật về Đê điều và Phòng chống lụt bão, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi của một bộ phận dân cư, một số doanh nghiệp còn hạn chế, nhiều hành vi cố tình vi phạm, như lấn chiếm mái đê, hành lang đê, xây dựng nhà ở, quán xá, công trình phụ …
- Chính quyền một số địa phương còn thiếu quan tâm đến công tác chỉ đạo thi hành nhiệm vụ bảo vệ đê điều. Việc tổ chức thực hiện Luật Đê điều, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi ở một số địa phương chưa nghiêm túc, vẫn xảy ra các hiện tượng như cấp đất, cho thuê đất ở bãi sông không đúng quy định, lấn chiếm, sử dụng đất trái phép trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, gây mất an toàn cho công trình .v.v.. Một số nơi còn buông lỏng quản lý, chưa thực hiện trách nhiệm ngăn chặn, xử lý vi phạm một cách kiên quyết, dứt điểm; sự phối hợp giữa các cấp, ngành chưa chặt chẽ, còn biểu hiện đùn đẩy trách nhiệm (chính quyền cấp huyện) trong việc thực hiện trách nhiệm quản lý, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Còn một số ít cán bộ và người dân chưa hiểu sâu, hiểu rõ về chính sách miễn giảm thủy lợi phí.
Trong 9 tháng đầu năm 2010 đã xảy ra 1565 vụ vi phạm Luật Đê điều và Phòng chống lụt bão, đã xử lý được 254 vụ, còn tồn đọng 1.311 vụ.
b. Một số vướng mắc
- Do lịch sử để lại, trong quá trình nâng cấp và cải tạo đê xảy ra hiện tượng “Đê lấn dân”; đồng thời nhiều địa phương đã cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho dân đến sát chân đê dẫn đến việc giải phóng mặt bằng thực hiện công tác tu bổ và cắm mốc chỉ giới phạm vi bảo vệ đê điều gặp nhiều khó khăn.
- Do kinh tế phát triển với tốc độ cao, đặc biệt nhiều khu đô thị được mở rộng, nhiều khu công nghiệp phát triển… kéo theo nhiều hoạt động liên quan đến đê điều, thoát lũ phát sinh; tăng nhanh, nhu cầu vật liệu xây dựng tăng nhanh, tình trạng khai thác đất, cát, lập bến bãi, sản xuất gạch ngói, nuôi trồng thủy sản… gia tăng dẫn đến việc bảo vệ công trình thủy lợi, đê điều ngày càng khó khăn hơn, có nhiều diễn biến thay đổi phức tạp.
- Công trình, nhà ở đã được cấp quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng nên việc muốn di dời phải thực hiện chế độ bồi thường, hỗ trợ và thành lập khu tái định cư. Số lượng công trình, nhà ở nhiều, kinh phí của địa phương có hạn nên việc di dời các công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi tại các địa phương gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc di dời công trình nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều không thể thực hiện trong vòng 2 năm kể từ khi Luật Đê điều có hiệu lực như quy định tại điểm b khoản 2, Điều 6 Nghị định số 113/2007/NĐ-CP ngày 28/6/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đê điều.
- Sự phối hợp giữa các cấp, ngành của địa phương chưa tốt trong việc thực hiện trách nhiệm quản lý, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
- Nhiều tỉnh, thành phố chưa phê duyệt quy hoạch phòng, chống lũ chi tiết của từng tuyến sông có đê trên địa bàn; chưa lập quy hoạch sử dụng đất ngoài bãi sông có đê, chưa quy hoạch các khu bến bãi tập kết vật liệu xây dựng; chưa thống nhất các tiêu chuẩn thiết kế và quản lý xây dựng các bến bãi cũng như hoạt động của các cầu tàu, bến bãi dẫn đến việc xử lý các hoạt động ngoài bãi sông gặp nhiều khó khăn.
- Việc thực hiện chính sách thủy lợi phí: quá trình triển khai cũng còn nhiều bất cập như mức thu giữa các vùng chưa hợp lý, phân cấp cho địa phương quản lý công trình thủy lợi còn kém hiệu quả, nhận thức của người dân còn hạn chế.
2.4. Về Thú y
a. Tình hình thực hiện
Quá trình kiểm tra tại các cơ sở sản xuất thuốc thú y, thú y thủy sản thấy, việc chấp hành các quy định pháp luật thú y trong sản xuất kinh doanh thuốc thú y nhìn chung là tốt, tuân thủ các quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, kiểm tra tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm cho thấy, đối với các cơ sở giết mổ tập trung, hoạt động theo phương thức bán công nghiệp tuy còn có một số điểm khắc phục song nhìn chung đều đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm. Riêng các cơ sở giết mổ thủ công, nhỏ lẻ chưa thực hiện nghiêm túc các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh thú y, như khử trùng, tiêu độc, vệ sinh định kỳ cơ sở, dụng cụ chứa đựng, trang bị quần áo bảo hộ cho công nhân trong quá trình giết mổ; không có hệ thống xử lý nước thải, chất thải phát sinh trong quá trình giết mổ. Việc kiểm tra, kiểm soát giết mổ của lực lượng thú y tại các cơ sở này còn có yếu kém, hạn chế.
Các quy định của pháp luật không được tuân thủ hoặc mức độ tuân thủ không cao:
+ Về địa điểm: Pháp luật thú y quy định cơ sở sản xuất thuốc thú y, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm phải nằm cách xa khu dân cư song trên thực tế hầu hết các cơ sở được kiểm tra có địa điểm nằm trong hoặc sát khu dân cư.
+ Về vệ sinh thú y: Hiện nay Bộ Nông nghiệp đã ban hành rất nhiều tiêu chuẩn vệ sinh thú y đối với cơ sở sản xuất thuốc cũng như cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm. Tuy nhiên tình trạng giết mổ không đảm bảo vệ sinh thú y như hiện nay là khá phổ biến.
Nguyên nhân: Do ý thức tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân không cao.
2.2.5. Về Hợp tác xã và phát triển nông thôn
a. Tình hình thực hiện: Nhìn chung các đơn vị thực hiện tốt các chế độ, chính sách pháp luật hiện hành của nhà nước về quy hoạch bố trí dân cư, phát triển nông thôn, quy chế điều lệ hợp tác xã, dự án được đầu tư đúng đối tượng, nội dung.
Việc thực hiện pháp luật năm 2010 tại các đơn vị đã có nhiều kết quả tốt, nhận thức về pháp luật của cán bộ, công chức, xã viên hợp tác xã và người dân càng rõ hơn, không có vi phạm pháp luật xảy ra.
b. Một số vướng mắc
- Đối với các văn bản về chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo 2006 – 2010 (Quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 về chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010; Quyết định 20/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010):
+ Mức chuẩn nghèo thấp và do tình hình giá cả biến động nên không còn phù hợp với thực tế; đối tượng nghèo chủ yếu là tàn tật bẩm sinh, ốm đau, cô đơn, không có khả năng tham gia lao động.
+ Nguồn vốn ít, mục tiêu chương trình lớn, đối tượng nghèo cần được hỗ trợ nhiều nên khó đạt được mục tiêu đề ra; mức hỗ trợ thấp nên việc triển khai thực hiện ở cơ sở còn gặp nhiều khó khăn (Mức hỗ trợ tối đối với các hộ khác không phải vùng cao, vùng sâu, vùng xa mức hỗ trợ tối đa 50% và không quá 3.000.000 đồng).
- Đối với Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010):
+ Thông tư ban hành còn chậm, chưa cụ thể, thủ tục còn rườm rà nên việc tổ chức triển khai, thực hiện ở cơ sở còn nhiều khó khăn, lúng túng, không đảm bảo tiến độ và mùa vụ.
+ Việc xây dựng kế hoạch thực hiện từ thôn, bản, xã, do trình độ cán bộ ở cơ sở còn hạn chế nên việc tổng hợp trình giao kế hoạch giao vốn hàng năm thường chậm so với tiến độ.
+ Quy trình lập, thẩm định dự án còn phức tạp, chưa thống nhất quan điểm thực hiện, chưa cụ thể về quy trình, mức chi phí lập, thẩm định, quản lý dự án.
+ Chương trình phân cấp về cho xã làm chủ đầu tư còn gặp nhiều khó khăn do trình độ, năng lực cán bộ ở cơ sở còn yếu nên lúng túng, không đảm bảo tiến độ.
2.2.6. Về Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản
a. Tình hình thực hiện: Qua kiểm tra cho thấy, các cơ sở có hoạt động sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm nông thủy sản đều nhận thức và có ý thức chấp hành các quy định về quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm nông thủy sản; đa số người dân đều nhận thức về vấn đề an toàn thực phẩm, tuy nhiên, còn một số tổ chức, cá nhân chưa nắm và hiểu biết cụ thể về các quy định của pháp luật.
Nhìn chung các văn bản chuyên ngành quy định về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đều được thực hiện, mức độ vi phạm của các tổ chức, cá nhân giảm so với thời gian trước.
b. Một số vướng mắc
- Văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về lĩnh vực chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm còn bất cập, chồng chéo, một số văn bản chưa khả thi. Ví dụ: Quyết định số 117/2008/QĐ-BNN ngày 11/12/2008 của Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành quy chế kiểm tra và công nhận cơ sở sản xuất kinh doanh đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm quy định về đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý của địa phương là tương đối lớn, chi phí kiểm tra, kiểm nghiệm, công nhận cho các đối tượng này rất lớn, nguồn kinh phí của địa phương duyệt chi cho công tác này lại thấp nên không thể tổ chức kiểm tra chứng nhận cho tất cả các cơ sở.
- Quy chế kiểm tra chứng nhận các sản phẩm nông lâm sản chưa mang lại hiệu quả cao. Thanh tra chuyên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm được thành lập theo Nghị định số 79/2008/NĐ-CP của Chính phủ hoạt động không hiệu quả, vì Luật Thanh tra không quy định chức danh này, thanh tra chuyên ngành khi kiểm tra phát hiện sai phạm không được xử lý.
2.2.7. Về Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối
Nhìn chung các quy định của pháp luật đã được tuân thủ. Tuy nhiên các Thông tư số 116/2006/TT-BNN và Thông tư số 78/2007/TT-BNN đều không quy định rõ ràng thành phần hồ sơ, trình tự thủ tục giải quyết nên việc thực thi của các đối tượng còn lúng túng, chi phí thực hiện ở một số nơi, một số trường hợp còn cao, gây lãng phí.
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do các văn bản quy phạm pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng, mặt khác là do công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở địa phương chưa được triển khai tốt (do năng lực của cán bộ quản lý còn chưa cao và kinh phí hạn hẹp).
2.2.8. Về lâm nghiệp
Các cơ quan đơn vị được kiểm tra cơ bản chấp hành tốt các quy định của pháp luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng và quản lý lâm sản, ý thức chấp hành bảo vệ rừng, sử dụng hợp lý tài nguyên rừng ngày càng tốt hơn, số vụ vi phạm và mức độ vi phạm nhìn chung năm sau giảm hơn năm trước. Các chủ trương, chính sách của nhà nước trong lĩnh vực này đã phát huy hiệu quả trong ngăn chặn hành vi phá rừng trái phép; phòng cháy, chữa cháy rừng.
Về công tác giao rừng: Chính sách giao rừng chưa đồng bộ, quy định, hướng dẫn về thủ tục giao rừng không đồng thời với giao đất. Vì vậy, chưa xác định được hiện trạng và giá trị tài sản của rừng khi giao, đến năm 2007 Bộ mới có Thông tư số 38/2007/TT-BNN ngày 25/4/2007 hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng, thuê rừng, thu hồi rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn. Vì vậy tốc độ giao rừng còn chậm, diện tích được cấp sổ đỏ thấp. Sự phối hợp giữa Sở Nông nghiệp và PTNT và Sở Tài nguyên và môi trường chưa được chặt chẽ, không có kinh phí để thực hiện nhiệm vụ này.
2.2.9. Về Trồng trọt
Tại các địa phương kiểm tra, các quy định về trồng trọt được thực hiện nghiêm túc trên thực tế, tuy nhiên vẫn còn có một số các vi phạm, như sản xuất kinh doanh giống cây lâm nghiệp không có giấy phép kinh doanh theo Quyết định số 89/2006/QĐ-BNN. Nguyên nhân chính là các tổ chức, cá nhân, sản xuất, kinh doanh theo mùa vụ và mục đích chủ yếu là phục vụ cho các chương trình, dự án của địa phương và quốc gia.
Một số hộ kinh doanh không có giấy phép kinh doanh hoặc có giấy phép kinh doanh hàng tạp hóa nhưng chưa có mục đăng ký kinh doanh phân bón, giống, thức ăn chăn nuôi nhưng vẫn kinh doanh các mặt hàng này, các hộ kinh doanh cá thể không có hóa đơn khi mua hàng nên việc xác định nguồn gốc, chất lượng hàng hóa rất khó.
2.2.10. Một số vấn đề khác
- Về công tác pháp chế: Tại các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được kiểm tra hầu hết không có Phòng pháp chế, công tác pháp chế thường được giao cho cán bộ chuyên trách thuộc Văn phòng Sở hoặc cán bộ kiêm nhiệm thuộc Thanh tra Sở, chưa tuân thủ quy định tại Nghị định 122/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 5 năm 2004 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và doanh nghiệp nhà nước.
- Công tác xây dựng văn bản, phổ biến giáo dục pháp luật và kiểm tra thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày càng được quan tâm, chỉ đạo thực hiện.
- Công tác kiểm tra, rà soát văn bản thường được thực hiện theo chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Tư pháp, nhiều Sở chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu văn bản QPPL; các phòng ban tự tổ chức việc thu thập văn bản liên quan đến nhiệm vụ của đơn vị mình.
2.3. Các kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành pháp luật
2.3.1. Kiến nghị xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật:
a. Về thủy sản:
- Sửa đổi bổ sung Luật Thủy sản
- Sửa đổi Nghị định số 59/2005/NĐ-CP và Nghị định số 66/2005/NĐ-CP
b. Về Bảo vệ thực vật:
- Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Nghị định 26/2003/NĐ-CP
c. Về Hợp tác xã và phát triển nông thôn
- Về chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo:
+ Thay đổi chuẩn nghèo cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Đề nghị hỗ trợ 100% cây, con giống, vật tư cho các hộ nghèo.
+ Tăng mức hỗ trợ đối với các hộ không phải vùng cao, vùng sâu, vùng xa và đối với các hoạt động khuyến nông – lâm – ngư và hỗ trợ phát triển ngành nghề, tăng nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ để chương trình sớm hoàn thành mục tiêu.
+ Mở rộng đối tượng hỗ trợ của dự án
- Về chương trình 135: Trong giai đoạn tiếp theo cần tiếp tục có chính sách để hỗ trợ đồng bào, các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Nội dung hướng dẫn của Thông tư cần cụ thể hơn để việc triển khai, thực hiện ở cơ sở được thuận tiện. Quy trình lập, thẩm định dự án cần thống nhất, cụ thể hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị cơ sở triển khai thực hiện.
d. Về quản lý chất lượng nông lâm thủy sản:
- Sửa đổi Luật Thanh tra, trong đó quy định về thanh tra chuyên ngành vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Xây dựng văn bản về cơ chế tài chính thực hiện kiểm tra, kiểm soát, thu phí và lệ phí các đối tượng kiểm tra.
e. Về chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối: Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Thông tư số 116/2006/TT-BNN và Thông tư số 78/2007/TT-BNN theo hướng quy định rõ ràng thành phần hồ sơ, trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết của cơ quan nhà nước.
f. Lâm nghiệp
- Ban hành văn bản quy định hướng dẫn giao đất đồng thời với giao rừng, cấp và sử dụng kinh phí khi giao đất, giao rừng, trách nhiệm của các cơ quan trong công tác này.
- Quy định, hướng dẫn cụ thể hơn trong việc định giá rừng
2.3.2. Kiến nghị về các biện pháp tổ chức thi hành pháp luật
- Chính quyền địa phương cần chủ động và tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân để người dân hiểu rõ nội dung, phạm vi thực hiện của chính sách.
- Tăng cường việc đôn đốc chỉ đạo các cấp chính quyền địa phương trong công tác quản lý, xử lý các vi phạm.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH SỐ 1987/QĐ-TTg .
Thực hiện Quyết định số 1987/QĐ-TTg ngày 30 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật” và Quyết định số 769/QĐ-BTP ngày 10 tháng 02 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về Ban hành kế hoạch tổng thể thực hiện Đề án, tính đến tháng 11/2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện một số hoạt động sau:
- Ngay từ khi được thành lập vào năm 2003, Vụ Pháp chế - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được tổ chức theo mô hình các tổ chuyên môn về nghiệp vụ pháp chế gắn liền với từng lĩnh vực chuyên ngành, trong đó có Tổ kiểm tra thi hành pháp luật. Trong những năm qua, Tổ kiểm tra thi hành pháp luật là đầu mối về công tác kiểm tra thi hành pháp luật của Vụ và của cả Bộ. Tổ có nhiệm vụ:
+ Tham mưu giúp Vụ trình Bộ trưởng ban hành hướng dẫn nghiệp vụ về công tác kiểm tra thực hiện pháp luật cho các đơn vị thuộc Bộ.
+ Hướng dẫn các đơn vị lập kế hoạch kiểm tra thực hiện pháp luật và lập kế hoạch kiểm tra của Vụ.
+ Tổng hợp kết quả kiểm tra thực hiện pháp luật, báo cáo Bộ trưởng.
Tuy nhiên việc thực hiện công tác này ở Bộ vẫn còn nhiều lúng túng, chưa tìm ra mô hình tổ chức kiểm tra thực hiện pháp luật để vừa đảm bảo tính hiệu quả của công tác này, vừa tạo thế chủ động cho các đơn vị.
- Theo quy định tại Nghị định số 01/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Vụ Pháp chế không được thành lập các phòng.
Vì vậy, để thực hiện Quyết định số 1987/QĐ-TTg , Vụ Pháp chế đã tham mưu cho Bộ kiện toàn về chức năng, nhiệm vụ và cán bộ cho Tổ theo dõi thi hành pháp luật mà tiền thân là Tổ kiểm tra thi hành pháp luật.
Tổ theo dõi thi hành pháp luật có các nhiệm vụ sau:
- Theo dõi, đánh giá chung về thi hành pháp luật về nông nghiệp và phát triển nông thôn, cụ thể:
+ Tình hình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật.
+ Mức độ tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
+ Hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
- Hướng dẫn nghiệp vụ về theo dõi thi hành pháp luật cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ.
- Xây dựng kế hoạch điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật hàng năm của Bộ.
- Phối hợp với các đơn vị thuộc bộ tổ chức kiểm tra tình hình thi hành pháp luật.
- Xây dựng các báo cáo về công tác theo dõi thi hành pháp luật theo quy định.
Hiện tại, số lượng cán bộ của Tổ là 05 người trong đó có 01 Lãnh đạo phụ trách và 04 chuyên viên.
Để thực hiện nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật trong thời gian tới, Tổ kiểm tra thi hành pháp luật đang nghiên cứu tham mưu cho Vụ trình Bộ ban hành văn bản hướng dẫn công tác theo dõi thi hành pháp luật cho các đơn vị thuộc Bộ trên cơ sở quy định của Thông tư số 03/2010/TT-BTP cho phù hợp với tình hình thực tiễn của Bộ, đồng thời tiến tới củng cố mô hình tổ chức tại các đơn vị thuộc Bộ để thực hiện công tác này.
- Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định về theo dõi thi hành pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai công tác này.
- Bộ Tư pháp:
+ Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định.
+ Xây dựng các tiêu chí đánh giá các nội dung theo dõi thi hành pháp luật theo quy định tại Thông tư số 03/2010/TT-BTP .
+ Biên soạn tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Trên đây là báo cáo tình hình thi hành pháp luật năm 2010 và tình hình thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật theo Quyết định số 1987/QĐ-TTg của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kính gửi Bộ Tư pháp tổng hợp, báo cáo Chính phủ./.
Nơi nhận: |
TL.
BỘ TRƯỞNG |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.