ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 262/BC-UBND |
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 12 năm 2014 |
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI, NGÂN SÁCH NĂM 2014
Thực hiện Nghị quyết số 53/2013/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội; Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014; Kết luận số 151-KL/TU ngày 06 tháng 12 năm 2013 của Hội nghị lần thứ 16 Thành ủy khóa IX; Nghị quyết số 25/2013/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2013 của Hội đồng nhân dân Thành phố về dự toán và phân bổ ngân sách Thành phố năm 2014, Nghị quyết số 38/2013/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2013 của Hội đồng nhân dân Thành phố về nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2014; Ủy ban nhân dân Thành phố đã xây dựng nhiệm vụ, kế hoạch kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách năm 2014, ban hành các Quyết định, Chỉ thị, Kế hoạch về điều hành tổ chức thực hiện. Với quyết tâm cao của hệ thống chính trị, sự nỗ lực vượt khó của doanh nghiệp và sự chung sức của các tầng lớp nhân dân, Thành phố đã đạt được một số kết quả quan trọng như sau:
1. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) năm 2014 đạt 852.523 tỷ đồng, tăng 9,6% (cùng kỳ tăng 9,3%). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, dịch vụ chiếm tỷ trọng 59,6% trong GDP, công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 39,4%, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 1%. GDP bình quân đầu người đạt 5.131 đô-la Mỹ, tăng 12,89% (năm 2013 là 4.545 đô-la Mỹ).
2. Thương mại - Dịch vụ, xuất - nhập khẩu
a) Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 655.365,5 tỷ đồng, tăng 12,5% (cùng kỳ tăng 10,7%); nếu loại trừ yếu tố biến động giá thì tăng 8,04% (cùng kỳ tăng 8,6%). Riêng tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 13,9%, nếu loại trừ yếu tố biến động giá thì tăng 11,9% so cùng kỳ. Như vậy sức mua thị trường thành phố năm 2014 (kể cả doanh thu và lượng hàng hóa dịch vụ tiêu thụ) vẫn duy trì mức tăng trưởng khá.
b) Kim ngạch xuất khẩu ước cả năm 2014 đạt 32,083 tỷ đô-la Mỹ, tăng 8,8% so cùng kỳ (cùng kỳ giảm 6%). Nếu loại trừ trị giá dầu thô, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 24,903 tỷ đô-la Mỹ, tăng 11,9% so cùng kỳ năm trước (cùng kỳ giảm 2,5%). Nếu loại trừ kim ngạch tái xuất vàng (trong năm 2013), kim ngạch xuất khẩu của Thành phố tăng 14,65%. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu tăng cao so cùng kỳ: gạo, thủy sản, cà phê, hạt tiêu, rau quả, dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ, máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng khác. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu giảm so cùng kỳ: máy vi tính và sản phẩm điện tử (do một số doanh nghiệp trong Khu Công nghệ cao tạm ngưng sản xuất), sắn và các sản phẩm từ sắn (do giá giảm), cao su (do nguồn cung thế giới tăng cao và giá giảm). Cơ cấu thị trường xuất khẩu: Khu vực châu Á chiếm tỷ trọng 57,49%; châu Âu 17,94%; châu Mỹ 21,26%; châu Phi và châu Đại Dương 3,31%.
Kim ngạch nhập khẩu ước cả năm 2014 đạt 30,690 tỷ đô-la Mỹ, tăng 7,2% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 14,9%). Mặt hàng hàng nhập khẩu tăng so cùng kỳ: máy móc thiết bị và phụ tùng; vải các loại; sắt thép các loại; nguyên phụ liệu dệt may, da và giày; chất dẻo nguyên liệu; điện thoại các loại và linh kiện. Mặt hàng hàng nhập khẩu giảm so cùng kỳ: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; phân bón các loại; đá quý, kim loại quý; bánh, kẹo và sản phẩm từ ngũ cốc. Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu: Nhóm hàng cần thiết nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao 75,97%; Nhóm hàng cần thiết nhập khẩu nhưng phải kiểm soát chiếm tỷ trọng 17,8%; Nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu chiếm nhỏ nhất 6,22%.
Nhìn chung năm 2014, chất lượng xuất khẩu tiếp tục được nâng lên và phát triển theo hướng bền vững thể hiện ở những lĩnh vực như sau: những năm trước mức tăng kim ngạch xuất khẩu thường do doanh nghiệp FDI thì nay doanh nghiệp trong nước đã có sự tăng trưởng khá tăng 8,5% (cùng kỳ năm trước giảm 8%); cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chuyển biến tích cực nhóm hàng công nghệ, chế biến, chế tạo chiếm mức cao 69,4%; thị trường xuất nhập khẩu phát triển phù hợp với sự chỉ đạo của Chính phủ và Thành phố, theo hướng đa dạng, hạn chế tình trạng lệ thuộc vào một thị trường, xuất khẩu tăng mạnh ở thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, tăng chậm ở thị trường Trung Quốc tăng 4,1% (cùng kỳ năm trước tăng 32,1%); Các nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu đang chuyển đổi thị trường nhập khẩu: vải nguyên liệu đang tăng cường nhập khẩu Hàn Quốc; Nhật Bản, Malaysia, giảm nhập khẩu từ Trung Quốc (giảm 16,1%)…; nguyên phụ liệu dệt may, da, giày chuyển hướng thị trường nhập khẩu sang Nhật Bản, Malaysia, New Zealand, Ý, giảm nhập khẩu từ Trung Quốc (giảm 17%)….
c) Triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ thị trường:
- Tiếp tục thực hiện 04 Chương trình bình ổn thị trường theo hướng mở rộng quy mô thực hiện, đi vào chiều sâu, không sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Tình hình thị trường các mặt hàng thiết yếu trên địa bàn Thành phố tương đối ổn định, lượng hàng hóa dồi dào, không có hiện tượng khan hàng, sốt giá cục bộ. Doanh nghiệp tham gia Chương trình bình ổn thị trường tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch đầu tư; hiện đại hóa, liên kết sản xuất - kinh doanh, tạo nguồn hàng, phát triển điểm bán, đảm bảo cân đối cung - cầu thị trường các mặt hàng thiết yếu. Tính đến ngày 01/11/2014, trên địa bàn Thành phố có 8.939 điểm bán, tăng 8.691 điểm bán so năm 2008 và tăng 736 điểm bán so thời điểm tháng 4/2014 khi bắt đầu triển khai Chương trình bình ổn thị trường năm 2014 và Tết Ất Mùi 2015[1]. Thành phố đưa vào sử dụng Biểu trưng (Logo) của Chương trình bình ổn thị trường để nâng cao ý thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp, góp phần gia tăng giá trị thương hiệu của hàng hóa sản xuất trong nước.
- Chương trình kết nối cung - cầu hàng hóa với các tỉnh, thành Đông - Tây Nam bộ; qua 3 năm thực hiện đã ký kết 867 hợp đồng, trong đó năm 2014 đã ký được 430 hợp đồng cung ứng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp Thành phố với các doanh nghiệp tỉnh, thành Đông - Tây Nam bộ, doanh thu 2 chiều đạt gần 20.000 tỷ đồng. Chương trình đã góp phần tạo mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và phân phối, khai thác được tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương và thông qua hoạt động kết nối cung cầu hàng hóa đã giúp cho hàng Việt mở rộng thị phần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp ổn định cung - cầu trên thị trường và thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
- Chương trình thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được triển khai sâu rộng; tạo chuyển biến tích cực trong xã hội về việc sử dụng hàng Việt Nam, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp khai thác tốt thị trường nội địa, nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng uy tín thương hiệu; đẩy mạnh hỗ trợ lãi suất thông qua chương trình kích cầu đầu tư theo Quyết định 33, 38/QĐ-UBND của Thành phố[2]. Trong bối cảnh hội nhập phải cạnh tranh gay gắt, hàng Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống phân phối của Thành phố.[3] Tại thời điểm khảo sát tháng 8/2014, tỷ lệ hàng Việt Nam tại các chợ truyền thống đạt bình quân 80%, tại siêu thị, cửa hàng thuộc hệ thống thương mại đạt bình quân 90%. Các hoạt động quảng bá, kết nối doanh nghiệp và xúc tiến tiêu thụ hàng Việt Nam đã tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực từ Thành phố đến các tỉnh, thành trong nước.
Thành phố đã tập trung chỉ đạo công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, kiểm tra kiểm soát chống hàng gian, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng; đã kiểm tra 17.769 vụ, tăng 15,71% so cùng kỳ; phát hiện 11.797 vụ vi phạm, tăng 17% so cùng kỳ; thu nộp ngân sách 91,070 tỷ đồng, tăng 29,49% so cùng kỳ.
d) Tín dụng - Ngân hàng: Tổng vốn huy động đến đầu tháng 12 là 1.289.700 tỷ đồng, tăng 14,3% so cùng kỳ năm 2013; trong đó vốn huy động VNĐ chiếm 84,3%, tăng 14,8%; vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 15,7%, tăng 12%. Tổng dư nợ tín dụng đến đầu tháng 12 là 1.037.900 tỷ đồng, tăng 11,5% so cùng kỳ năm 2013; trong đó, dư nợ tín dụng bằng VNĐ là 872.600 tỷ đồng, tăng 11,5%; dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ là 165.300 tỷ đồng, tăng 11,2%. Dư nợ tín dụng trung dài hạn tăng 25,8% so cùng kỳ năm 2013; dư nợ tín dụng ngắn hạn giảm 0,5% so cùng kỳ năm 2013. Dư nợ cho vay đối với 5 nhóm lĩnh vực ưu tiên[4] bao gồm cả ngắn, trung dài hạn và cho vay bằng ngoại tệ đạt 587.000 tỷ đồng, chiếm 58% tổng dư nợ; trong đó cho vay ngắn hạn 5 lĩnh vực ưu tiên đạt 134.185 tỷ đồng[5], tăng 6,3% so cuối năm 2013; cho vay hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng cao nhất, đạt 67% tổng dư nợ 5 nhóm lĩnh vực ưu tiên.
Tỷ lệ nợ xấu đến cuối tháng 9/2014 chiếm 6,66% tổng dư nợ, tăng 1,97% (cuối năm 2013 là 4,69%), nguyên nhân nợ xấu tăng là do từ ngày 01/6/2014 các tổ chức tín dụng bắt đầu thực hiện phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và thực hiện các điều kiện cơ cấu lại nợ theo Thông tư 09/2014/TT-NHNN và Thông tư 02/2013/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước. Lượng kiều hối đạt 5 tỷ đô-la Mỹ, tăng 4,2%[6]. Thành phố đã phối hợp với Ngân hàng nhà nước giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn nhằm đảm bảo ổn định, an toàn hệ thống.
- Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp: các ngân hàng đã thực hiện ký kết với tổng số tiền 38.996 tỷ đồng cho 1.089 doanh nghiệp (vượt mức kế hoạch giao năm 2014 là 20.000 tỷ đồng), tăng 3 lần so thực hiện năm 2013; dự kiến cả năm thực hiện 40.000 tỷ đồng. Đây là điểm sáng, thể hiện sự chủ động của Thành phố nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua khó khăn.
đ) Thị trường chứng khoán, ngoại hối và vàng: Đến cuối tháng 11/2014, có 304 cổ phiếu và 2 chứng chỉ quỹ được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán; giá trị thị trường của các chứng khoán niêm yết là 1.020.047,49 tỷ đồng, tăng 21,1% so cuối năm 2013. Khối lượng giao dịch bình quân phiên có 134,93 triệu chứng khoán được chuyển nhượng với giá trị 2.369,09 tỷ đồng. Trong năm 2014, chỉ số VN-Index đạt mức thấp nhất vào ngày 02/01 với 504,51 điểm và đạt mức cao nhất vào ngày 03/9 với 640,75 điểm. Tình hình tỷ giá ngoại hối tương đối ổn định, tỷ giá Việt Nam đồng và giá vàng trong nước không biến động lớn.
e) Hoạt động Du lịch: là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước, với tốc độ tăng trưởng khá, tổng doanh thu ước đạt 89.405 tỷ đồng, tăng 7,4% so cùng kỳ; lượng khách quốc tế đạt 4,4 triệu lượt, tăng 7% so cùng kỳ; khách du lịch nội địa đạt 17,6 triệu lượt người, tăng 13% so cùng kỳ. Thành phố đã tập trung xây dựng sản phẩm mới gắn liền với nâng cao chất lượng dịch vụ, xây dựng môi trường thân thiện, an toàn; phối hợp chặt chẽ với các tỉnh, thành phố xây dựng các chuyến du lịch nhằm đa dạng, phong phú sản phẩm du lịch, nâng chất các sự kiện mang tầm vóc quốc tế và tính chuyên nghiệp; tiếp tục nâng chất lượng các điểm bán hàng, khách sạn, dịch vụ đạt chuẩn; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch; tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến, trong đó chú trọng giới thiệu đến du khách sản phẩm du lịch đường sông. Đã công bố quyết định thành lập Sở Du lịch, đổi tên Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch thành Sở Văn hóa và Thể thao.
g) Vận tải hàng hóa - hành khách: Tổng doanh thu vận tải hàng hóa và hành khách năm 2014 đạt 63.780,2 tỷ đồng, tăng 16,3% so cùng kỳ năm 2013. Trong đó: doanh thu vận tải hàng hóa thông qua cảng biển ước 15,650 tỷ đồng (tăng 15,3% so cùng kỳ năm 2013); doanh thu vận tải hàng hóa qua đường bộ ước 24,713 tỷ đồng (tăng 18,8% so cùng kỳ năm 2013). Có 593 triệu lượt hành khách sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng và trong năm đã đăng ký mới 287.394 phương tiện giao thông cơ giới (29.134 ôtô, 258.260 xe gắn máy); nâng tổng số đang quản lý 6.849.285 chiếc (578.138 ôtô, 6.271.147 xe gắn máy), tăng 6,48% so cùng kỳ.
Đã tập trung chấn chỉnh hoạt động xe buýt và xử lý một số sai phạm. Đã khánh thành cảng Tân cảng - Hiệp Phước và hoàn thành việc nạo vét luồng sông Soài Rạp giai đoạn 2 (- 9,5m), có khả năng tiếp nhận tàu từ 50.000 đến 55.000 DWT, rút ngắn gần 20 km, tiết kiệm 01 giờ đồng và nhiều chi phí khác, góp phần phát triển kinh tế cảng của Thành phố. Sản lượng hàng hóa qua các cảng trên địa bàn Thành phố đạt 100,9 triệu tấn, tăng 14,23% so năm 2013.
h) Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin: Tổng số thuê bao điện thoại cố định và di động đạt 15,8 triệu thuê bao, giảm 6% điện thoại cố định và lượng sim rác. Mật độ điện thoại đạt 166 máy/100 dân. Có 3.952 cơ sở kinh doanh dịch vụ Internet công cộng (giảm 2%). Truy cập Internet qua hệ thống cáp ước đạt 1,3 triệu, trong đó truy cập qua hệ thống cáp quang tăng 74%, qua hệ thống cáp đồng truyền hình tăng 29%. Doanh thu năm 2014 của lĩnh vực bưu chính, viễn thông ước 34.460 tỷ đồng (tăng 2% so cùng kỳ), trong đó bưu chính ước 4.555 tỷ đồng và viễn thông ước 29.905 tỷ đồng. Doanh thu ngành công nghiệp công nghệ thông tin ước 139.407,5 tỷ đồng (tăng 25% so cùng kỳ), trong đó phần cứng ước 115.708 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 83% toàn ngành công nghệ thông tin), phần mềm và nội dung số ước 23.699,5 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 17% toàn ngành công nghệ thông tin).
Đã hoàn thành trên 80% kế hoạch về chỉnh trang thu gom mạng cáp (24 dự án, 48,5km); ngầm hóa cáp viễn thông 19 công trình. Đã triển khai phương án kết nối các tổng đài khẩn cấp 113, 114 và 115 trên địa bàn nhằm thống nhất tiếp nhận và xử lý thông tin phục vụ công tác cứu nạn, cứu hộ.
Triển khai mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan quản lý nhà nước; xây dựng nền tảng mở cho mô hình chính quyền điện tử, phát triển ứng dụng công nghệ nguồn mở cho 22 quận-huyện; chuyển giao đào tạo cho 28 tỉnh, thành. Xây dựng trục tích hợp liên thông kết nối văn bản toàn Thành phố; tổ chức triển khai thành công hệ thống Đăng ký kinh doanh tại nhà và ISO điện tử tại Thành phố phục vụ người dân, doanh nghiệp; triển khai hệ thống quản lý cấp phép lao động nước ngoài trực tuyến, hệ thống quản lý cấp phép đầu tư nước ngoài trực tuyến. Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch Thành phố Hồ Chí Minh đạt nhiều kết quả khả quan, đặc biệt sản phẩm bộ thu thập dữ liệu tự động từ xa của Chương trình vi mạch đã thắng thầu phân phối cho Tổng Công ty Điện lực Thành phố năm 2015 khoảng 40.000 bộ, tiết kiệm cho ngân sách 25 tỷ đồng.
3. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2014 giảm 0,36% so tháng 11/2014. Cả năm chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,65% so tháng 12/2013, thấp hơn so cùng kỳ (năm 2013 tăng 5,2%), đã góp phần cùng cả nước kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
4. Công nghiệp: Chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) tăng 7% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 6,35%). Quy mô sản xuất công nghiệp tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, giảm dần tỷ trọng của ngành công nghiệp khai khoáng. Bốn ngành công nghiệp trọng yếu (cơ khí chế tạo, điện tử, hóa chất - cao su - nhựa và chế biến tinh lương thực thực phẩm) tăng 8,3% so cùng kỳ, cao hơn mức tăng chung của toàn ngành; trong đó ngành cơ khí chế tạo tăng 16,6% (cùng kỳ tăng 6,6%); ngành điện tử tăng 8,3% (cùng kỳ tăng 2,7%); ngành hóa chất, cao su - nhựa phát triển theo hướng bảo vệ môi sinh, môi trường, tốc độ tăng 4,1% (cùng kỳ tăng 8,4%); ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống chuyển sang tinh chế sản phẩm chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, tăng 4,3%.
Thành phố tiếp tục thực hiện chương trình tiết kiệm điện năm 2014 nhằm tạo chuyển biến trong nâng cao ý thức sử dụng điện tiết kiệm. Sản lượng điện nhận tiêu thụ 19.393 triệu kWh, tăng 4,3% so cùng kỳ; trong đó điện thương phẩm là 18.365 triệu kWh, tăng 4,04%. Tỷ lệ tổn thất điện năng đạt 5,15%, thấp hơn kế hoạch 0,15%. Sản lượng điện tiết kiệm 410 triệu kWh, chiếm 2,23% điện thương phẩm, vượt 8% kế hoạch, đáp ứng nguồn điện phục vụ sản xuất - kinh doanh và sinh hoạt.
- Tình hình hoạt động đầu tư tại các khu chế xuất, khu công nghiệp: Đã tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng các khu chế xuất, khu công nghiệp. Tổng vốn đầu tư cả năm ước 700 triệu đô-la Mỹ, đạt 140% kế hoạch, tăng 15% so cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu năm 2014 ước 5,5 tỷ đô-la Mỹ, tăng 8% so cùng kỳ. Đã chuẩn bị điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển công nghiệp hỗ trợ, Khu công nghiệp Việt - Nhật tại Khu Công nghiệp Hiệp Phước, Khu Công nghiệp Lê Minh xuân 3. Đã thực hiện chương trình kết nối giữa 6 ngân hàng với 23 doanh nghiệp trong khu chế xuất với tổng giá trị hợp đồng tín dụng là 875,1 tỷ và 2 triệu đô-la Mỹ.
- Hoạt động Khu Công nghệ cao: Thành phố đã tập trung thu hút đầu tư các lĩnh vực công nghệ cao và triển khai công tác nghiên cứu, đào tạo, ươm tạo phục vụ nhà đầu tư; tổ chức xúc tiến đầu tư gắn kết chặt chẽ với xây dựng hạ tầng, thu hồi đất, quy hoạch và bảo vệ môi trường. Đã cấp phép mới 09 dự án[7] với tổng vốn đầu tư 1.896,4 triệu đô-la Mỹ; lũy kế đến nay có 85 dự án được cấp phép với 4.353,4 triệu đô-la Mỹ vốn đầu tư. Hiện có 67 dự án còn hiệu lực với 4.098,2 triệu đô-la Mỹ vốn đầu tư (810,5 triệu đô-la Mỹ vốn trong nước, 3.287,7 triệu đô-la Mỹ vốn FDI); 40/67 dự án còn hiệu lực đang hoạt động chiếm 59,7%; 27 dự án chưa triển khai chiếm 40,3%. Giá trị xuất khẩu năm 2014 ước 3 tỷ đô-la Mỹ, đạt 100% kế hoạch. Tính đến nay, lũy kế diện tích đất thu hồi đạt 98% đất cần phải thu hồi. Tập đoàn Samsung đang triển khai dự án ở Khu Công nghệ cao.
- Đến nay có 120 doanh nghiệp hoạt động tại Khu Công viên phần mềm Quang Trung (68 doanh nghiệp trong nước, 52 doanh nghiệp nước ngoài); trong đó có 10 công ty nằm trong danh sách khoảng 50 công ty hàng đầu Việt Nam, có 03 doanh nghiệp hàng đầu thế giới như HP, IBM (Mỹ), KDDI (Nhật Bản); 05 doanh nghiệp có chứng chỉ quản lý chất lượng sản xuất phần mềm tiên tiến thế giới CMMI như TMA, GCS, Larion, Misa và GHP (hiện đổi tên thành SPS-Swiss Post Solutions). Các doanh nghiệp đã xây dựng và cung cấp hơn 140 sản phẩm, dịch vụ và giải pháp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và được xuất khẩu trên 20 quốc gia, chủ yếu tập trung vào Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu Âu. Các doanh nghiệp đã quan tâm ngày càng nhiều hơn vào hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) và đào tạo nguồn nhân lực. Tổng doanh thu năm 2014 ước 3.797,5 tỷ đồng (tương đương 173 triệu đô-la Mỹ), tăng 32,6% so cùng kỳ. Giá trị xuất khẩu năm 2014 ước 98,44 triệu đô-la Mỹ, tăng 38,9% so cùng kỳ.
- Phát triển nông nghiệp trên địa bàn theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững; tập trung cây, con giống và các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp điều kiện của Thành phố. Trong năm đã sản xuất 15.400 tấn hạt giống, phục vụ 1 triệu ha đất gieo trồng[8], chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đô thị. Đã đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, chuyển giao các tiến bộ về giống, cải tiến kỹ thuật trồng rau theo quy trình VietGAP, đẩy mạnh cơ giới hóa trong sản xuất hoa lan; phát triển mô hình nuôi cá cảnh,[9]… Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp ước đạt 16.505,2 tỷ đồng, tăng 6% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 5,7%)[10]. Hiệu quả sản xuất trên 1 ha đất canh tác đạt 325 triệu đồng/ha/năm, tăng 15,2% so cùng kỳ.
- Công tác xây dựng Khu Nông nghiệp Công nghệ cao tiếp tục giai đoạn 2, chuẩn bị đầu tư dự án Khu nuôi trồng thủy sản công nghệ cao tại Cần Giờ; dự án mở rộng 200ha tại xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi; lĩnh vực chăn nuôi tại huyện Bình Chánh. Đã đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất giống cây, giống con chất lượng cao. Đã cung cấp cho thị trường hơn 12 tấn hạt giống F1 chất lượng cao các loại, 1.649 tấn thành phẩm (nấm rơm, dưa leo, dưa lưới, dưa leo thủy canh, bầu thủy canh, bí đao thủy canh, trái cây xử lý bằng công nghệ hơi nước nóng), 4.970 lít chế phẩm sinh học, nấm linh chi, kiểng. Đã góp phần chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, bền vững. Trung tâm Công nghệ sinh học đã kỷ niệm 10 năm hoạt động.
Đã tăng cường kiểm tra tình hình dịch tễ đàn gia súc, gia cầm; vận chuyển, giết mổ, kinh doanh động vật, triển khai các biện pháp phòng, chống dịch một cách đồng bộ, phát triển ngành chăn nuôi. Công tác phòng, chống cháy, bảo vệ rừng, đặc biệt rừng phòng hộ, đặc dụng tiếp tục được tăng cường. Tỉ lệ che phủ rừng và cây xanh đạt 39,8%.
- Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao, các công trình giao thông, thủy lợi, văn hóa-xã hội-y tế, xóa nhà dột nát cho người dân…. được tập trung triển khai, bộ mặt nông thôn có sự thay đổi rõ nét. Đến nay đã có 06/06 xã điểm đạt 19/19 tiêu chí[11], 50 xã còn lại bình quân ước đạt 16 - 18 tiêu chí. Về phong trào thi đua “Thành phố chung sức xây dựng nông thôn mới”: đến nay, tổng số lượng nhà tạm, dột nát của 5 huyện là 2.368 căn (1.689 căn xây dựng mới, 679 căn sửa chữa) với tổng kinh phí dự kiến 85,8 tỷ đồng. Đến ngày 05 tháng 11 năm 2014, đã hỗ trợ xóa 1.446/2.368 căn (1.064 căn xây dựng mới, 382 căn sửa chữa) với kinh phí thực hiện hơn 53,622 tỷ đồng. Tổng số nhà tạm, dột nát còn lại, phấn đấu cơ bản xóa trước ngày 31 tháng 12 năm 2014 là: 922 căn[12].
Tổng thu ngân sách Nhà nước (không tính ghi thu ghi chi) ước thực hiện năm 2014 là 249.866 tỷ đồng, đạt 110,41% dự toán, tăng 10,29% so cùng kỳ. Trong đó thu nội địa 132.216 tỷ đồng, đạt 106,45% dự toán, tăng 11,33% so cùng kỳ; thu từ dầu thô 31.150 tỷ đồng, đạt 114,10% dự toán, tăng 0,11% so cùng kỳ; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 86.500 tỷ đồng, đạt 115,64% dự toán, tăng 12,82% so cùng kỳ. Thu ngân sách năm 2014 đã đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó 07 quận-huyện có số thu từ 500 tỷ đồng (Quận 2, 4, 6, 8, 11, huyện Bình Chánh và Hóc Môn), 06 quận có số thu từ 1.000 tỷ đồng (Quận 5, 9, 12, Tân Phú, Gò Vấp, Thủ Đức), 03 quận có số thu từ 1.500 tỷ đồng (Quận 10, Phú Nhuận, Bình Tân), 05 quận có số thu từ 2.000 tỷ đồng trở lên (Quận 1, 3, 7, Bình Thạnh và Tân Bình).
Đã phát hành thành công trái phiếu chính quyền địa phương đợt 1với khối lượng 1.500 tỷ đồng, tiếp tục phát hành đợt 2 với khối lượng 1.500 tỷ đồng để tăng nguồn vốn đầu tư phát triển.
Về công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành trong 10 tháng năm 2014, đã thực hiện phê duyệt 243 dự án với tổng mức đầu tư 5.215,702 tỷ đồng, thẩm tra tiết kiệm giảm 78,182 tỷ. Công tác thẩm định giá thiết bị của phòng thí nghiệm Trung tâm nghiên cứu và phát triển nông nghiệp công nghệ cao và hệ thống phòng cháy chữa cháy cho các bảo tàng đã tiết kiệm giảm tổng số tiền 6,759 tỷ so giá trị đề nghị 64,433 tỷ.
Tổng chi ngân sách (trừ tạm ứng) ước thực hiện 47.711 tỷ đồng, đạt 113,65% dự toán, tăng 7,22% so cùng kỳ. Ước chi đầu tư phát triển 19.156 tỷ đồng, đạt 171,87% dự toán, tăng 12,56% so cùng kỳ, trong đó: chi trả vốn và lãi vay 3.741 tỷ đồng, đạt 110,91% dự toán; ước chi thường xuyên 28.544 tỷ đồng, đạt 96,76% dự toán, tăng 7,79% so cùng kỳ.
a) Dự kiến tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2014 đạt khoảng 250,4 ngàn tỷ đồng, chiếm 28,5% GDP, hiệu quả hơn so kế hoạch đề ra (31%).
b) Đầu tư trong nước: Tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2014, có 24.416 doanh nghiệp được cấp phép thành lập mới (chiếm 32,62% so với số doanh nghiệp thành lập mới của cả nước) với 130.522,3 tỷ đồng, trong đó có 6.667 hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp tại nhà; có 39.010 doanh nghiệp thay đổi nội dung kinh doanh với 157.570,6 tỷ đồng vốn bổ sung[13]. Tính chung tổng vốn đăng ký mới và bổ sung là 288.092,9 tỷ đồng, tăng 15,6% so cùng kỳ[14].
Trong 11 tháng năm 2014, có 22.423 doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động, khóa mã số thuế tại Cục Thuế Thành phố. Tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2014, có 2.682 doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể tại Sở Kế hoạch và Đầu tư (bằng 10,9% số doanh nghiệp thành lập mới), tăng 10,2% so cùng kỳ.
c) Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI): Tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2014, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kết quả khả quan: có 429 dự án được cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với 2,84 tỷ đô-la Mỹ; có 135 dự án điều chỉnh tăng vốn với 378,5 triệu đô-la Mỹ[15]. Tính chung, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và điều chỉnh tăng vốn là 3,2 tỷ đô-la Mỹ, tăng 91,6% so cùng kỳ. Đã thu hút đầu tư công nghệ cao từ Tập đoàn Samsung (1,4 tỷ đô-la Mỹ).
d) Vốn viện trợ phát triển (ODA): Thành phố đang quản lý 03 dự án đã hoàn thành, đang theo dõi trả nợ và 19 dự án đang triển khai thực hiện với 119.827 tỷ đồng vốn đầu tư (98.467 tỷ đồng vốn ODA, 21.360 tỷ đồng vốn đối ứng). Ước giải ngân năm 2014 là 6.000 tỷ đồng (5.000 tỷ đồng vốn ODA; 1.000 tỷ đồng vốn đối ứng).
Tiến độ thực hiện các tuyến đường sắt đô thị: Đang tập trung Dự án tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành - Suối Tiên, triển khai các gói thầu đường ngầm, đường trên cao, nhà ga trung tâm; đồng thời đề xuất Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ sung các dự án sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ Nhật Bản (thời kỳ 2014 - 2016), gồm : Dự án xây dựng tuyến đường sắt số 3a, số 3b, dự án xây dựng Trung tâm thương mại ngầm khu vực Bến Thành - Lê Lợi thuộc Nhà ga Trung tâm Bến Thành. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 631/QĐ-TTg ngày 29 tháng 4 năm 2014 về Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài theo hình thức BOT, PPP đối với một số dự án của Thành phố như: Dự án Xây dựng tuyến đường sắt đô thị số 6; Tuyến monorail số 2 và số 3; Tuyến xe điện mặt đất số 1 (tramway).
đ) Các dự án hạ tầng giao thông tại Khu đô thị Tây Bắc và Khu Nam Thành phố: đã phê duyệt 06 dự án được đầu tư theo hình thức BT tại Khu đô thị Tây Bắc bao gồm: đường dọc Kênh 5, đường dọc Kênh 7, đường dọc Kênh 8, đường nội bộ nối Kênh 5 - Kênh 7, sửa chữa nâng cấp đường Tam Tân và nút giao thông tại chân đường dẫn vào cầu An Hạ. Tất cả 06 dự án đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư. Đối với Khu Nam đang rà soát, xem xét để thực hiện các dự án đã có chủ trương đầu tư, các dự án chậm triển khai để xử lý theo quy định.
e) Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2012 - 2015 được tập trung thực hiện. Đến ngày 20/10/2014, đã xem xét và quyết định phê duyệt đề án tái cơ cấu của 14/14 tổng công ty, công ty mẹ; thực hiện xong cổ phần hóa 12/15 doanh nghiệp của năm 2014, 03 doanh nghiệp sẽ hoàn thành cổ phần hóa vào đầu năm 2015 do cần có thêm thời gian xác định giá trị doanh nghiệp. Đã hoàn thành sắp xếp 06/25 doanh nghiệp (03 doanh nghiệp tuyên bố phá sản, 01 doanh nghiệp giải thể, 02 doanh nghiệp sáp nhập) tồn đọng sau đợt sắp xếp thời gian trước đây.
Hiện nay có 106 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trực thuộc Thành phố và 2 quỹ địa phương[16]. Tổng doanh thu năm 2014 ước 82.940 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch. Lợi nhuận ước 8.857 tỷ đồng, tăng 12,08% so cùng kỳ. Tổng số phát sinh phải nộp ngân sách là 8.967 tỷ đồng, tăng 3,45% so cùng kỳ.
h) Thành phố tập trung triển khai thực hiện Kết luận số 56-KL/TW, Chỉ thị số 16-CT/TU của Thành ủy về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Đến nay Thành phố có 4.728 tổ hợp tác, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản, thương mại dịch vụ, nông nghiệp, tín dụng…; 537 hợp tác xã (trong đó có 328 hợp tác xã là thành viên Liên minh) và 9 liên hiệp Hợp tác xã (trong đó có 6 liên hiệp thành viên); là lực lượng nòng cốt cùng kinh tế Nhà nước bình ổn thị trường, đặc biệt khi có biến động giá cả, hỗ trợ, giúp đỡ những người sản xuất nhỏ, nhất là lĩnh vực nông nghiệp.
8. Hoạt động hội chợ, triển lãm, xúc tiến đầu tư, thương mại: Thành phố đã đón tiếp và cung cấp thông tin cho 70 đoàn khách từ nhiều nước tìm hiểu về môi trường, cơ hội hợp tác kinh doanh và đầu tư trong các lĩnh vực thương mại, công nghiệp phụ trợ, công nghệ thông tin, chế biến thực phẩm, thủ tục đầu tư kinh doanh tại Thành phố Hồ Chí Minh[17].
Tiếp tục thực hiện Chương trình Hợp tác thương mại giữa Thành phố với các tỉnh, thành Đông - Tây Nam bộ, một số các tỉnh, thành tại khu vực miền Bắc và miền Trung đã lan tỏa đến các vùng, miền trong cả nước, tạo điều kiện để sản xuất tiêu thụ hàng hóa nội địa giữa các doanh nghiệp Thành phố với các địa phương. Đến nay, Thành phố đã hợp tác với 35 tỉnh - thành phố, nhất là với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với 1.165 dự án đã được ký kết, tổng giá trị ước khoảng 279.503 tỷ đồng.
Đã tổ chức 216 hội chợ chuyên ngành và đa ngành, thu hút hàng ngàn công ty trong nước và quốc tế tham dự, đã tăng cường trao đổi hợp tác, ký kết nhiều hợp đồng thương mại. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại tại thị trường nội địa, Thành phố đã chỉ đạo tiếp tục triển khai Chương trình “Phiên chợ hàng Việt” nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại các quận ven, huyện ngoại thành; đã tổ chức 7 Phiên chợ hàng Việt với 225 lượt doanh nghiệp tham gia, thu hút hơn 105.000 lượt khách tham quan, mua sắm và đạt tổng doanh thu hơn 10 tỷ đồng. Thành phố triển khai Chương trình “Tháng khuyến mại” với nhiều sự kiện và phục vụ trong thời gian dài hơn so những năm trước; thu hút 1.200 doanh nghiệp tham gia (tăng 41% về số lượng so năm 2013) và hơn 3.000 hộ kinh doanh cá thể với các hình thức khuyến mại hấp dẫn, đa dạng, phong phú tại khoảng 4.370 điểm bán hàng trong các chợ, cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn Thành phố (tăng 45,6% số lượng điểm bán so năm 2013). Cổng thông tin điện tử thương mại và đầu tư (MIS) thường xuyên cập nhật thông tin dành cho khách mua hàng, nhà đầu tư nước ngoài và nhà xuất khẩu; cập nhật các báo cáo về thị trường, tin tức về hoạt động xúc tiến của Thành phố và các văn bản pháp luật mới ban hành[18].
Nhờ những cải tiến thủ tục hành chính và nỗ lực phục vụ sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của Thành phố năm 2013 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố đã tăng 3 bậc (từ hạng 12 tăng lên hạng 10) trong 63 tỉnh, thành phố; chỉ số cải cách hành chính năm 2013 do Bộ Nội vụ công bố xếp hạng 9/63 tỉnh, thành phố (giảm 6 bậc so năm 2012); chỉ số thương mại điện tử do Bộ Công Thương công bố đứng hàng đầu. Thành phố đã chỉ đạo các Sở, ngành và quận - huyện tăng cường cải tiến thủ tục hành chính, công khai, minh bạch, khắc phục các hạn chế thiếu sót để nâng cao năng lực cạnh tranh và chỉ số cải cách hành chính trên địa bàn Thành phố.
9. Khoa học và công nghệ: đã tiến hành triển khai 162 đề tài, dự án (xét duyệt 50 đề tài, thực hiện giám định 49 đề tài, nghiệm thu 63 đề tài), tiếp nhận 454 hồ sơ đăng ký, kết quả sơ tuyển 180 đề tài năm 2015 (trong đó có 54 hồ sơ thuộc chương trình Vườn ươm sáng tạo khoa học công nghệ trẻ); tiếp tục thực hiện thí điểm hợp đồng đặt hàng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Hiện nay có 25 đề tài được chọn tham gia hình thức hợp đồng đặt hàng (mua sản phẩm nghiên cứu). Xây dựng Chương trình phát triển hệ thống doanh nghiệp khoa học công nghệ giai đoạn 2013 - 2020; điều phối công tác vớt và xử lý lục bình làm phân bón; triển khai đề án “Bảo tồn nguồn gen sinh vật phục vụ nhu cầu phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực Nam Bộ giai đoạn 2014 - 2020”; hoàn chỉnh dự thảo “Quy chế thực hiện thí điểm một số chính sách thu hút chuyên gia khoa học và công nghệ”. Triển khai các chương trình khoa học và công nghệ hỗ trợ chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Thành phố. Hoạt động khoa học công nghệ có nhiều nỗ lực nhưng các đề tài đưa vào ứng dụng chưa nhiều.
10. Quản lý đô thị và thực hiện quy hoạch, quản lý quy hoạch:
10.1. Quản lý quy hoạch: Đã tổ chức hội nghị công bố Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2013; đã chỉ đạo các ngành, các cấp khẩn trương triển khai thực hiện Quy hoạch[19]. Đã phê duyệt danh mục lập các dự án quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu trên địa bàn[20]; trong đó đã bổ sung 12 quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu mới cần được thực hiện song song với các quy hoạch đang triển khai. Đã công bố Quy chế quản lý kiến trúc - quy hoạch chung Thành phố Hồ Chí Minh theo Đồ án Quy hoạch chung Thành phố để làm cơ sở cho công tác cấp Giấy phép xây dựng trên toàn địa bàn[21].
Đang tiếp tục triển khai lập quy hoạch hệ thống đường ống xăng dầu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và điều chỉnh quy hoạch hệ thống chợ - siêu thị - trung tâm thương mại, khu hóa chất tại các quận - huyện trên địa bàn Thành phố đến năm 2015. Tiếp tục triển khai thực hiện thiết kế đô thị một số trục tuyến đường quan trọng, chương trình bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị, Đề án ngầm hoá hệ thống hạ tầng kỹ thuật; kế hoạch thực hiện chương trình giảm ngập.
Về hạ tầng đô thị: đã hoàn thành đưa vào sử dụng 121 dự án hạ tầng kỹ thuật và xã hội từ nguồn ngân sách Thành phố với tổng mức đầu tư 11.979 tỷ đồng.
10.2. Quản lý xây dựng, chương trình nhà ở thành phố: Đến cuối năm 2014, ước phát triển 8,3 triệu m2 diện tích sàn xây dựng, nâng diện tích nhà ở bình quân đầu người lên 16,9 m2/người. Đã cấp 41.737 giấy phép, với 10.638.160,79 m2 diện tích sàn xây dựng. Tình hình cấp phép thời gian gần đây tiếp tục tăng do nhu cầu của người dân và do thủ tục cấp phép xây dựng đã được đơn giản hóa. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trật tự xây dựng đã có nhiều chuyển biến, quản lý trật tự xây dựng thực hiện chặt chẽ và hiệu quả; tình trạng xây dựng sai phép, không phép trên địa bàn Thành phố đã giảm. Đến nay[22], có 1.688 vụ vi phạm xây dựng không phép, sai phép (giảm 49,5% so cùng kỳ); trong đó, không phép 1.256 vụ (giảm 51,9% so cùng kỳ), sai phép 432 vụ (giảm 40,7% so cùng kỳ).
a) Phát triển nhà ở tái định cư: đã rà soát, cân đối, điều chuyển 6.427 căn hộ và nền đất cho các quận-huyện[23] và cho đề án di dời các hộ dân ở các vùng có nguy cơ sạt lỡ bờ sông; hướng dẫn, phối hợp giải quyết các vướng mắc liên quan đến tiếp nhận quỹ đất 630 nền đất từ việc hoán đổi từ đất do Nhà nước trực tiếp quản lý tại các dự án trên địa bàn quận-huyện[24]; giải quyết vướng mắc liên quan đến chính sách bồi thường và tái định cư cho 950 hộ gia đình, cá nhân bị ảnh hưởng trong các dự án trọng điểm; kiểm tra thực địa, làm việc, hướng dẫn, hỗ trợ giải quyết khó khăn, vướng mắc 36 dự án nhà ở tái định cư và chương trình 12.500 căn phục vụ tái định cư khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đến nay, chương trình 12.500 căn đã xây dựng hoàn thành và nghiệm thu bàn giao 2.460 căn, trong đó đã bố trí sử dụng 1.132 căn, đang tiếp tục rà soát chương trình tái định cư, nhà trên kênh rạch để giải quyết cụ thể.
b) Công tác di dời, tháo dỡ, cải tạo và xây dựng mới chung cư cũ: đã hoàn thành tháo dỡ chung cư 148 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3; khởi công đầu tư xây dựng dự án chung cư Khu A - Nguyễn Kim, phường 7, Quận 10 với 765 căn hộ; thực hiện di dời 696 hộ dân[25] và bố trí tái định cư cho 723 hộ dân[26] của các chung cư cũ; hỗ trợ giải quyết các khó khăn, vướng mắc cho các chủ đầu tư trong quá trình thực hiện di dời, tháo dỡ, cải tạo và xây dựng mới các chung cư cũ[27].
c) Phát triển nhà ở xã hội:
- Nhà lưu trú công nhân: hỗ trợ giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các chủ đầu tư dự án xây dựng nhà lưu trú công nhân làm việc tại các Khu chế xuất - Khu công nghiệp[28] để đẩy nhanh tiến độ thực hiện; tổ chức kiểm tra định kỳ chất lượng nhà trọ do các hộ gia đình và cá nhân tự đầu tư xây dựng tại các Quận 7, 12, Gò Vấp, Tân Phú, Bình Tân, huyện Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè.
- Ký túc xá sinh viên: Đã nghiệm thu hoàn thành 03 dự án ký túc xá sinh viên[29] với quy mô 333.570 m2 sàn, đáp ứng khoảng 39.000 chỗ.
- Nhà ở xã hội (không kể nhà lưu trú công nhân, ký túc xá sinh viên): Đã khởi công 01 dự án nhà ở xã hội tại Quận 2 và hoàn thành 01 dự án nhà ở lực lượng vũ trang tại quận Gò Vấp[30]; đã bán 1.195 căn hộ nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài ngân sách cho các đối tượng nhà ở xã hội; chuyển đổi 03 dự án[31] nhà ở thương mại sang làm nhà ở xã hội theo Thông tư 02/2013/TT-BXD của Bộ Xây dựng với diện tích đất là 2,699 ha, quy mô 880 căn hộ, với 75.834 m2 sàn xây dựng; công nhận chủ đầu tư cho 03 dự án nhà ở xã hội[32].
10.3. Tình hình thị trường bất động sản: có 1.403 dự án phát triển nhà ở, với tổng diện tích đất 11.861,67 ha, tổng diện tích sàn xây dựng 51,307 triệu m2, quy mô 506.547 căn; đến nay có 426 dự án đã hoàn thành (30,36%); 201 dự án đang xây dựng (14,33%); 689 dự án đang ngưng triển khai (49,1%); 85 dự án đã thu hồi hoặc hủy bỏ chủ trương đầu tư (6,1%). Hiện nay, đang tiếp tục rà soát, phân loại 689 dự án phát triển nhà ở đang tạm ngưng triển khai thực hiện trên địa bàn theo loại hình (khu đô thị, nhà thấp tầng, nhà chung cư...), theo phân khúc (cao cấp, trung cấp, thu nhập thấp...) để có biện pháp giải quyết phù hợp cho từng loại dự án.
Các doanh nghiệp bất động sản đã bán được 7.256 căn (50,08%)/14.490 căn hộ tồn đọng cuối năm 2012. Thị trường bất động sản từng bước khôi phục, nhất là phân khúc loại trung bình. Đã chấp thuận 08/11 dự án đủ điều kiện được chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội. Có 9/21 dự án nhà ở thương mại được điều chỉnh căn hộ có diện tích lớn sang căn hộ có diện tích nhỏ. Đối với dự án nhà ở đã chuyển đổi sang công trình dịch vụ, chủ đầu tư đang điều chỉnh quy hoạch và thiết kế cho phù hợp với công năng của bệnh viện.
Vốn tín dụng sử dụng hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm 12,24% tổng dư nợ. Chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở trên địa bàn tính đến ngày 15/10/2014 có 1.417 khách hàng đã ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng thương mại, tổng hạn mức tín dụng đã ký kết là 1.421,81 tỷ đồng, trong đó có 1.314 khách hàng đã giải ngân 752,74 tỷ đồng, dư nợ hiện tại 727,02 tỷ đồng.
Tiếp tục triển khai Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm giai đoạn 2011 - 2015 của Thành phố. Đã cấp 5.237 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức; 32.745 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn Thành phố[33]; ban hành 582 quyết định giao đất cho thuê đất với diện tích 663,7 ha, thu hồi 11 khu đất với diện tích 11,1 ha; tiến hành đấu giá 5 khu đất với diện tích 7.744 m2 tương đương giá trị khoảng 50,1 tỷ đồng nhằm tạo quỹ đất phục vụ đầu tư. Đã phê duyệt 24/24 hồ sơ quy hoạch sử dụng đất của các quận - huyện. Đã ban hành Quyết định số 3292/QĐ-UBND ngày 02 tháng 7 năm 2014 về Kế hoạch thực hiện dự án “Hoàn thiện, hiện đại hóa hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính và xây dựng cơ sở dữ liệu về địa giới hành chính tại Thành phố Hồ Chí Minh”; triển khai xây dựng kế hoạch lập bảng giá đất năm 2015; hoàn thành công tác xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý đất đai; tăng cường rà soát chỉnh lý biến động bản đồ địa chính trên địa bàn Thành phố theo Thông tư số 50/2013/TT-BTNMT ngày 27 tháng 12 năm 2013 và Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 5 năm 2014 của Bộ Tài nguyên Môi trường.
10.4. Chương trình nước sạch cho sinh hoạt của nhân dân nội và ngoại thành: Công suất phát nước bình quân đến cuối năm 2014 ước đạt 1,995 triệu m3/ngày, tổng sản lượng nước sản xuất ước đạt 573,987 triệu m3, đạt 101,46% kế hoạch và tăng 1,94% so năm 2013. Đến cuối năm 2014, tổng số hộ dân đô thị được cấp nước sạch là 1.414.983 hộ, nâng tỷ lệ hộ dân đô thị được cấp nước sạch đạt 96,17%. Các dự án giảm thất thoát nước, thất thu Vùng 1 và các khu vực thí điểm đạt kết quả khả quan, giảm lượng nước rò rỉ, tỷ lệ nước thất thoát còn 32,85%, giảm 1,18% so cuối năm 2013.
Chương trình nước sinh hoạt cho nhân dân ngoại thành: Quản lý khai thác 123 trạm cấp nước tập trung, phục vụ nước sinh hoạt cho 345.866 hộ dân ngoại thành. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được cấp nước sạch (thay thế cho nước hợp vệ sinh) đạt 32,70%. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 97%.
10.5. Công trình xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm: Từ đầu năm đến nay, đã chi trả bồi thường 157,669 tỷ đồng cho 634 hồ sơ; lũy kế đã chi trả bồi thường 17.336,834 tỷ đồng với diện tích đất bồi thường 715,9 ha/719,92 ha (đạt 99,44% tổng diện tích bao gồm cả diện tích giao thông, sông rạch). Còn 112 hồ sơ có diện tích 7,7 ha chưa thu hồi mặt bằng, Quận 2 đang tập trung giải quyết. Tổng quỹ căn hộ, nền đất giao cho Quận 2 đến nay là 2.878 căn hộ và 1.512 nền đất. Đã tái định cư cho 86 hộ dân; lũy kế đã tái định cư cho 2.741 căn hộ và 875 nền đất. Thành phố đã ban hành Quyết định phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chi tiết một số đồ án cụ thể, tập trung triển khai hạ tầng giao thông để thu hút đầu tư. Đã tiếp, cung cấp thông tin cho 100 lượt nhà đầu tư trong, ngoài nước đến tìm hiểu về quy hoạch và cơ hội hợp tác, đầu tư vào dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
11. Hoạt động Văn hóa - Xã hội
a) Hoạt động văn hóa - nghệ thuật diễn ra sôi nổi với nhiều chương trình biểu diễn đặc sắc: Các hoạt động lễ hội được tổ chức trang trọng, có ý nghĩa sâu sắc với nhiều nội dung mới, phong phú, hình thức đa dạng; nhiều chương trình, sự kiện được tổ chức với quy mô lớn, thu hút đông đảo công chúng trong cũng như ngoài nước nhằm tuyên truyền, cổ động chính trị, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống lịch sử của dân tộc như: Lễ hội đón chào năm mới 2014, Lễ hội đón giao thừa Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014, 84 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương; các hoạt động kỷ niệm 124 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 39 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4 và lần thứ 128 năm Ngày Quốc tế Lao động 1/5, 124 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 69 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân[34].
Đã kiện toàn nhân sự và Quy chế tổ chức hoạt động của Ban Chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từ Thành phố đến quận - huyện, phường - xã[35]. Năm 2014, tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hóa đạt 84,02%; tỷ lệ khu phố văn hóa, ấp văn hóa: 84,12%; tỷ lệ phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị, xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới: 39,44%; tỷ lệ phường, xã, thị trấn có nhà văn hóa, thư viện: 22,36%, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa: 95,9%.
Công tác quản lý các dịch vụ văn hóa được tăng cường, đã tiến hành kiểm tra, xử lý 397 tổ chức, cá nhân vi phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa - xã hội và du lịch trên địa bàn Thành phố với tổng số tiền phạt là 6,4 tỷ.
b) Lĩnh vực thể dục, thể thao: Các quận, huyện đã chủ động phối hợp cùng các đơn vị tổ chức hơn 300 giải thể thao, trò chơi vận động và biểu diễn Lân - Sư - Rồng chào mừng các ngày lễ lớn. Tỷ lệ người tập luyện thường xuyên đạt 27%; trường trung học thực hiện giáo dục thể chất trong nhà trường đạt 100%; tỷ lệ học sinh phân loại thể lực theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể tiếp tục duy trì tỷ lệ 99,5%. Nhiều hoạt động thể thao dành cho cộng đồng được tổ chức dưới hình thức xã hội hóa thu hút sự quan tâm và số lượng người tham dự đông đảo[36].
Năm 2014, Thành phố đã cử 4.666 lượt vận động viên thi đấu trong nước và thi đấu quốc tế, đạt được 1.816 huy chương (so cùng kỳ đã cử 5.198 người thi đấu, giành được 1.970 huy chương[37]) và đã tổ chức 96 giải cấp Thành phố; đăng cai tổ chức 21 giải toàn quốc; 16 giải quốc tế (4 giải châu Á, 12 giải quốc tế). Đối với hoạt động thể thao thành tích cao, với mục tiêu giành thành tích tốt ở các giải thể thao toàn quốc, đặc biệt là Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần VII, và các giải thể thao quốc tế như Asiad 17 (Incheon, Hàn Quốc), Youth Olympic Games 2 (Nam Kinh, Trung Quốc), Đại hội Thể thao Biển châu Á lần 4 - Asian Beach Games (Phuket, Thái Lan)[38].
c) Hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin đối ngoại đã tích cực thông tin, tuyên truyền về các chính sách, chủ trương của Nhà nước, của Đảng bộ, Chính quyền Thành phố, góp phần ổn định tư tưởng và dư luận xã hội, động viên mọi người cùng chung sức, chung lòng xây dựng, phát triển Thành phố, xây dựng đất nước. Nội dung tuyên truyền về biển, đảo (đặc biệt từ đầu tháng 5 đến nay đã tập trung tuyên truyền về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa trước sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 nằm sâu trong thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam), vận động Quỹ "Vì Trường Sa thân yêu - vì tuyến đầu tổ quốc"; về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; các thành tựu về công tác nhân quyền của Thành phố Hồ Chí Minh; triển khai Đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (giai đoạn 2010 - 2015) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”; về trật tự an toàn giao thông năm 2014 và Kế hoạch triển khai chiến lược quốc gia đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ,… Tiếp tục công tác tuyên truyền Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần IX, trong đó tập trung tuyên truyền 6 chương trình đột phá, đã ban hành Quyết định số 4610/QĐ-UBND ngày 15/9/2014 về ban hành Chương trình truyền thông về 6 chương trình đột phá trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Đã đón và hướng dẫn hoạt động cho 123 đoàn báo chí với 584 phóng viên nước ngoài vào tác nghiệp. Các chủ đề được phóng viên quan tâm: các đoàn cấp cao đến thăm Thành phố đưa phóng sự về văn hóa, ẩm thực, du lịch Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội và đầu tư, xuất nhập khẩu giữa Thành phố và các nước, nạn nhân chất độc da cam, con người và tiềm năng du lịch của Việt Nam, tình hình hợp tác đầu tư Việt Nam - Trung Quốc, đường sắt, du lịch của Thành phố và vấn đề nhận con nuôi, công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam,…
Thành phố đã phối hợp với Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch tổ chức trọng thể Lễ đón Bằng của UNESCO vinh danh nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ là Di sản Văn hóa phi vật thể Đại diện của nhân loại; phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức Hội nghị cấp cao lần 2 Ủy hội sông Mê Công với sự tham gia của các lạnh đạo cấp cao các nước Lào và Myanmar; tổ chức Hội chợ Du lịch Quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh (ITE) lần thứ 10 và “Lễ hội Thành phố Hồ Chí Minh - Ngôi nhà của chúng ta” lần thứ hai với tên gọi “Thành phố Hồ Chí Minh - Hội nhập và Phát triển”, tạo điều kiện cho nhân dân Thành phố hội nhập, giao lưu với bạn bè quốc tế.
d) Giáo dục và đào tạo: đã triển khai Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 và Kết luận số 51-KL/TW ngày 29 tháng 10 năm 2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng cao ở tất cả các cấp học, tỷ lệ tốt nghiệp hệ trung học phổ thông đạt 99,56%[39], tăng 0,6% so năm học trước và cao hơn tỷ lệ tốt nghiệp bình quân của cả nước (99,02%). Thành phố duy trì công tác phổ cập giáo dục trung học và được Bộ Giáo dục - Đào tạo công nhận đạt phổ cập mầm non 5 tuổi. Trong năm, đã công nhận mới 12 trường mầm non đạt chuẩn quốc gia (tăng số lượng trường mầm non đạt chuẩn quốc gia thành 91 trường); công nhận mới 03 trường tiểu học chuẩn quốc gia mức độ 1 (nâng tổng số đạt chuẩn quốc gia lên 49 trường). Ở bậc phổ thông có thêm 01 trường Trung học cơ sở được công nhận đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 26 trường (23 Trung học cơ sở và 3 Trung học phổ thông).
Thành phố đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân Thành phố về Đề án hỗ trợ giáo dục mầm non giai đoạn 2014 - 2020[40]. Năm học 2013 - 2014 tiếp tục triển khai nghiêm túc các quy định về chính sách miễn, giảm và hỗ trợ chi phí học tập[41], từng bước nâng cao dân trí, tập trung hỗ trợ cho con em hộ nghèo đi học. Đã cấp bù miễn giảm và hỗ trợ chi phí học tập năm 2013 là hơn 52 tỷ đồng và dự toán năm 2014 là hơn 79 tỷ đồng. Thực hiện chính sách hỗ trợ giáo dục cho học sinh thuộc diện hộ nghèo giai đoạn 2010 - 2015, năm 2013 đã thực hiện hỗ trợ cho 32.966 học sinh với số kinh phí là 19,281 tỷ đồng và giao dự toán ngân sách năm 2014 là 13,435 tỷ đồng để chi hỗ trợ chi phí học tập cho 21.326 học sinh theo chế độ.
Ngoài việc triển khai các chỉ đạo như: Quyết định số 3036/QĐ-UBND ngày 20 tháng 6 năm 2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố về tiêu chí Trường tiên tiến, theo xu thế hội nhập khu vực và quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh; Quyết định số 21/2014/QĐ-UBND ngày 06 tháng 6 năm 2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành qui định về quản lý dạy thêm, học thêm trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Thành phố cũng đã triển khai các chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo như: Nghị định 115/2010/CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục; Chương trình tích hợp dạy môn Toán và các môn Khoa học bằng tiếng Anh theo chuẩn quốc tế; thực hiện đánh giá giáo viên và học sinh về Tin học và Tiếng Anh theo các chuẩn quốc tế; Đề án thí điểm giữ trẻ mầm non từ 6 tháng tuổi đến 18 tháng tuổi; Đề án hỗ trợ giáo dục mầm non Thành phố; Đề án y tế trường học.
Tiếp tục triển khai Đề án đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và giáo viên ngành giáo dục và đào tạo Thành phố đến năm 2020. Quan tâm thực hiện các chính sách ưu đãi về vật chất và tinh thần, tạo động lực cho cán bộ quản lý và giảng dạy, đảm bảo đủ đội ngũ hoạt động tại đơn vị. Năm 2014 có 24 nhà giáo được đề xuất danh hiệu Nhà giáo nhân dân - Nhà giáo ưu tú. Về chất lượng giáo viên, có 51.620 giáo viên đạt chuẩn (99,9%) và 10.906 giáo viên trên chuẩn (21,1%). Về tình hình giáo viên dạy tiếng Anh, có 556 giáo viên dạy tiếng Anh đã đạt chuẩn và 2.999 giáo viên tiếng Anh được bồi dưỡng theo đề án “Phổ cập và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh cho học sinh phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp”.
Về tình hình học sinh đạt thành tích cao: năm học 2013 - 2014, toàn Thành phố có 2.009 học sinh lớp 9 đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp Thành phố; 2.150 học sinh lớp 12 đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp Thành phố; 195 học viên Giáo dục thường xuyên lớp 9 và 12 lớp đạt học viên giỏi cấp Thành phố; 130 học sinh đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp quốc gia; 23 học sinh giỏi Toán trên máy tính Casio; 85 học sinh đạt giải tiếng Anh trên Internet; 35 học sinh đạt giải Internet-Violympic, 01 học sinh đạt giải Nhất nội dung tại Hội thi Tin học Văn phòng Thế giới Microsoft 2014; 01 học sinh đạt giải Nhất, 01 học sinh đạt giải Nhì Olympic Toán Quốc tế; 01 học sinh đạt huy chương Đồng Olympic sinh học quốc tế; 02 học sinh đạt giải 4 cuộc thi Sáng tạo khoa học kỹ thuật quốc tế; 01 học sinh đạt huy chương Bạc Olympic Vật Lý quốc tế; 01 học sinh đạt huy chương Đồng Olympic Vật lý châu Á.
Năm học 2013 - 2014, các trường ngoài công lập với nguồn lực tự có đã xây mới và trang bị thêm phòng học xây mới và thiết bị với tổng quy mô: 598 phòng học mới, 289 nhà đa năng, 194 thư viện, 412 Giáo dục nghệ thuật, 587 Phòng bộ môn. Các trường đều xây dựng kế hoạch tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, xây dựng cảnh quan môi trường sư phạm ngày càng tốt hơn nhằm đáp ứng với quy mô đào tạo. Đã có nhiều trường mở thêm cơ sở mới[42] và mở rộng quy mô hiện có[43].
đ) Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng:
Ngành Y tế khám và điều trị khoảng 29 triệu lượt bệnh nhân, trong đó số điều trị nội trú khoảng 1,4 triệu lượt. Đã chỉ đạo các bệnh viện tiến hành các hoạt động cải tiến, nâng cao chất lượng và cung ứng dịch vụ y tế an toàn, chất lượng, hiệu quả, mang lại sự hài lòng cho người bệnh, người dân và nhân viên y tế. Thành phố cũng đã thành lập Hội đồng Quản lý chất lượng khám chữa bệnh gồm 5 Ban chuyên trách nhằm chủ động kiểm tra, giám sát chuyên đề những vấn đề chất lượng cần ưu tiên cải tiến: Ban An toàn người bệnh, Ban An toàn môi trường và An ninh trật tự Bệnh viện, Ban Khảo sát hài lòng người bệnh, Ban Phác đồ điều trị và Ban Công nghệ thông tin.
Từ đầu năm đến nay[44], số ca tay-chân-miệng nhập viện điều trị là 7.753 ca[45], tăng 29,8% so cùng kỳ (7.753 ca/5.973 ca), có 01 trường hợp tử vong. Có 6.061 ca sốt xuất huyết nhập viện điều trị, tăng 4,2% so cùng kỳ (6.061 ca/5.812 ca), tử vong 05 ca[46] (cùng kỳ có 04 trường hợp tử vong), 2 ca tử vong do bệnh tiêu chảy cấp. Đã tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát, chỉ đạo, hỗ trợ công tác phòng, chống dịch bệnh tại 24 quận - huyện, tập trung một số quận - huyện có số ca mắc bệnh cao (Bình Chánh, Quận 8, Bình Thạnh, Hóc Môn, Tân Phú...); kiểm soát chặt chẽ các ca nhiễm trong các trường mầm non và các nhóm trẻ gia đình; khẩn trương xử lý các ổ dịch nhỏ, các ca bệnh lẻ tẻ theo hướng dẫn của Bộ Y tế về giám sát và phòng, chống bệnh sốt xuất huyết, tay-chân-miệng, tiêu chảy cấp.
Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh do vi rút Ebola gây ra, Thành phố tích cực triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn như tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, phòng chống vi rút Ebola, tại các khu vực cửa khẩu, sân bay, các quận - huyện có nhiều người nước ngoài nhập cư, du lịch hoặc chuyển đến từ vùng có nguy cơ cao. Từ ngày 11 tháng 08 năm 2014, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đã tăng cường việc giám sát thân nhiệt hành khách nhập cảnh vào Việt Nam và thực hiện tờ khai y tế đối với những hành khách lưu trú tại 4 quốc gia đang có dịch Ebola bùng phát mạnh là Guinea, Liberia, Sierra Leone và Nigeria; thực hiện diễn tập phòng chống Ebola. Ngoài ra, Thành phố chỉ đạo các đơn vị liên quan khẩn trương xây dựng kế hoạch ứng phó, bố trí đầy đủ phòng cách ly, hóa chất, trang thiết bị dự phòng khi có dịch xảy ra; tăng cường thông tin, tuyên truyền đến người dân để chủ động phòng, chống dịch bệnh, tổ chức tập huấn cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập và ngoài công lập trên địa bàn Thành phố về chẩn đoán phát hiện sớm, điều trị cách ly, chuyển viện kịp thời.
Thực hiện Đề án đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Y tế giai đoạn 2011-2015, đã đạt và vượt toàn bộ các chỉ tiêu đề ra, đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh phục vụ người dân. Đã triển khai thực hiện Chương trình nhánh đào tạo nguồn nhân cho lĩnh vực y tế của Thành phố năm 2014 tại Quyết định số 1747/QĐ-UBND ngày 10 tháng 4 năm 2014. Thành phố đang xem xét Đề án “Tuyển dụng, đào tạo nhân lực y tế cho Bệnh viện Nhi Đồng Thành phố và Bệnh viện Ung Bướu cơ sở 02 của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014 - 2017”; tuyển dụng và đào tạo nhân lực y tế chất lượng cao cho Bệnh viện Nhi đồng Thành phố và Bệnh viện Ung Bướu cơ sở 02 của Thành phố Hồ Chí Minh theo chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn xếp hạng 1 theo qui định của Bộ Y tế.
Đã đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn ở nước ngoài, từ 06 tháng đến 12 tháng theo mô hình chuẩn quốc tế cho cán bộ lãnh đạo quản lý, đảm bảo các tiêu chuẩn để triển khai khám chữa bệnh bảo hiểm y tế quốc tế, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người nước ngoài, đảm bảo cho người dân được thụ hưởng các dịch vụ y tế chất lượng cao.
Tiếp tục thực hiện Đề án 1816 về “Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh”, triển khai đề án bệnh viện vệ tinh tại 12 bệnh viện thuộc 08 tỉnh khu vực phía Nam[47]; luân chuyển cán bộ y tế 2 đợt năm 2014, có 46 cán bộ y tế bệnh viện tuyến Thành phố hỗ trợ luân phiên tại các bệnh viện quận - huyện[48], cử 5 bác sĩ Bệnh viện Nhân Ái thực hiện hỗ trợ nhân lực cho 5 trung tâm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội[49]. Các chuyên khoa được hỗ trợ như: Hồi sức cấp cứu; Ngoại tổng quát; Ngoại chấn thương chỉnh hình; Nhi khoa; Nội tổng quát; Sản; Nhiễm; Mắt; Tai Mũi Họng; Chấn thương chỉnh hình. Đã thành lập nhiều phòng khám vệ tinh[50], khoa vệ tinh[51], chuyển giao gói kỹ thuật chuyên môn nhằm nâng cao công tác khám chữa bệnh cho bệnh viện tuyến dưới, tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị Bệnh viện quận huyện và Trạm Y tế nhằm củng cố và phát triển mạng lưới y tế cơ sở, góp phần giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến cuối.
Tiếp tục triển khai mô hình Bác sĩ Gia đình, bước đầu triển khai thí điểm đã đạt hiệu quả, tạo tín nhiệm đối với người bệnh đến đăng ký khám. Đã có 22/23 bệnh viện quận - huyện đăng ký triển khai phòng khám Bác sĩ gia đình[52]. Đăng ký triển khai phòng khám Bác sĩ gia đình tại Trạm Y tế phường-xã, sau khi thẩm định chỉ có 22 quận - huyện đạt yêu cầu (trừ huyện Cần Giờ không có nhân sự và huyện Bình Chánh đang xây sửa Trạm Y tế)[53].
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã được thực hiện tốt với mô hình Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; đề án sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh, mất cân bằng giới tính khi sinh; điểm tư vấn sức khỏe sinh sản - Tiền hôn nhân; tổ chức các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động và người dân trên địa bàn nhằm duy trì và đảm bảo cân bằng về tỷ số giới tính khi sinh.
Qua thực hiện đấu thầu tập trung thuốc đã đem lại hiệu quả trong việc mua sắm, cụ thể đã tiết kiệm được 1.412 tỷ đồng; bảo đảm tính thống nhất về giá ở các cơ sở y tế của Thành phố; tiết kiệm thời gian và chi phí tổ chức lựa chọn nhà thầu cho các đơn vị; nâng cao tính công khai, minh bạch, tạo điều kiện và sự cạnh tranh cho nhiều nhà cung cấp tham gia đấu thầu, đồng thời đã thực hiện chủ trương của Chính phủ về “Khuyến khích người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Kết quả đấu thầu thuốc tập trung này còn được sử dụng cho nhà thuốc của bệnh viện và các cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập để thanh toán với cơ quan Bảo hiểm y tế. Đồng thời, đã tiến hành thanh tra, xử lý các đơn vị sai phạm trong đấu thầu.
Đến cuối năm 2014, đạt 14,5 bác sĩ/1 vạn dân, 33,7 điều dưỡng/1 vạn dân; xã có trạm y tế đạt 100%; trạm y tế phường - xã có bác sĩ đạt 100%; tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi ≤ 10‰; tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi < 5%; tỷ lệ sinh dự ước ở mức 13,02‰ (đạt kế hoạch đề ra là 14,02‰).
Đã tiến hành xử lý vi phạm hành chính 200 cơ sở hành nghề y với 3,31 tỷ đồng tiền phạt; 603 cơ sở hành nghề dược với 3,29 tỷ đồng tiền phạt; xử phạt 1.370 cơ sở vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm với trên 6 tỷ đồng tiền phạt. Từ đầu năm đến nay, xảy ra 03 vụ ngộ độc thực phẩm[54] với 412 người mắc, không có trường hợp tử vong. Thành phố tiếp tục triển khai công tác khảo sát, tập huấn, hướng dẫn các cơ sở tham gia chuỗi thực phẩm an toàn, hạn chế tình trạng ngộ độc thực phẩm.
e) Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm
Năm 2014 đã giải quyết việc làm 284.000 lượt lao động, đạt 107,16% kế hoạch; số chỗ việc làm mới tạo ra 120.000 chỗ (đạt kế hoạch); kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp còn từ 4,65% - 4,7% (đạt kế hoạch); dự kiến các doanh nghiệp có giấy phép hoạt động đưa khoảng 4.300 người đi làm việc ở thị trường nước ngoài; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 69,93% (đạt kế hoạch).
Đào tạo nghề theo hướng xã hội hóa tiếp tục phát triển, tăng số lượng và hiệu quả ở các cấp độ đào tạo. Đến cuối năm 2014, Thành phố có 430 cơ sở dạy nghề[55]; tuyển sinh và đào tạo khoảng 443.535 sinh viên, học sinh[56]. Triển khai và giám sát các cơ sở dạy nghề triển khai Kế hoạch "Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời" với chủ đề: "Học để làm cho mình với cộng đồng hạnh phúc". Thực hiện rà soát, điều chỉnh nghề trọng điểm theo Quyết định số 854/QĐ-BLĐTBXH ngày 06/6/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Đã có 88.698 người lao động đến Trung tâm giới thiệu việc làm Thành phố đăng ký thất nghiệp.Trong đó, 82.409 người đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp; 81.509 người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp; 86.514 lượt người được tư vấn việc làm; 7.715 người được hỗ trợ học nghề. Đã tăng cường kiểm tra, rà soát đảm bảo đối tượng thụ hưởng chính sách bảo hiểm thất nghiệp đúng quy định, đồng thời tạo điều kiện để người lao động nhanh chóng quay lại thị trường lao động thông qua công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và dạy nghề. Có 70 vụ tranh chấp lao động tập thể với 18.182 người tham gia[57], giảm 17 vụ so cùng kỳ. Trong tổng số vụ tranh chấp lao động tập thể, có 15 vụ xảy ra trong các khu chế xuất - khu công nghiệp Thành phố (chiếm 21,42% tổng số vụ) với 7.351 người tham gia, trong đó 01 vụ xảy ra tại Khu công nghệ cao với 2.300 người tham gia. Thành phố đã chỉ đạo các quận - huyện nắm thông tin kịp thời, phát hiện giải quyết tranh chấp có thể xảy ra tại các doanh nghiệp, không để tình trạng lây lan ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư và an toàn trật tự xã hội.
g) Về chính sách đền ơn đáp nghĩa, chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá và bảo đảm an sinh xã hội: Thực hiện với nhiều giải pháp hiệu quả, hỗ trợ kịp thời cho đối tượng nghèo. Quỹ xóa đói giảm nghèo Thành phố đang trợ vốn cho 31.447 hộ nghèo với 227,719 tỷ đồng, giải quyết việc làm 1.579 lao động nghèo. Đến cuối năm 2014, giới thiệu việc làm cho 12.000 lao động nghèo, đào tạo nghề ngắn hạn cho 2.000 người nghèo... Đến cuối tháng 9 năm 2014, tổng số hộ nghèo có thu nhập từ 16 triệu đồng/người/năm trở xuống theo chuẩn nghèo của Thành phố còn khoảng 40.300 hộ, chiếm 1,35% tổng hộ dân Thành phố (hoàn thành kế hoạch đề ra, kế hoạch tỷ lệ hộ nghèo dưới 6,8%); tổng số hộ cận nghèo có thu nhập trên 16-21 triệu đồng/người/năm còn 54.400 hộ, chiếm 2,78% tổng hộ dân Thành phố. Đến nay, Thành phố đã có quyết định công nhận Quận 5 và Quận 6 thực hiện hoàn thành mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2014 - 2015 của Chương trình Giảm nghèo, tăng hộ khá Thành phố trước thời hạn 01 năm; là 02 địa phương “không còn hộ nghèo có mức thu nhập bình quân đầu người từ 16 triệu đồng/người/năm trở xuống”.
Đã công nhận mới 2.586 hồ sơ diện chính sách có công theo Nghị định 31/CP ngày 09 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ[58]. Tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa chăm lo cho diện chính sách nhân Kỷ niệm 67 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2014)[59]. Thành phố đã có thêm 1.102 bà mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, kế hoạch liên quan đến bảo vệ và chăm sóc trẻ em như Chương trình bảo vệ trẻ em, Chương trình hành động vì trẻ em giai đoạn 2013 - 2020; triển khai thực hiện Kế hoạch phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em giai đoạn 2014 - 2015; xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em bị bệnh tim bẩm sinh giai đoạn 2014 - 2015[60]. Thực hiện hiệu quả công tác giáo dục pháp luật, truyền thống, chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên. Đã tổ chức thực hiện hiệu quả chủ đề năm 2014 “Năm Thanh niên tình nguyện” thông qua phong trào“Xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; các hoạt động tình nguyện của tuổi trẻ Thành phố tiếp tục phát triển cả về lượng và chất, thu hút 172.829 thanh niên tham gia, đã làm lợi gần 35 tỷ đồng; Chương trình “Trí thức, khoa học trẻ tình nguyện”, chương trình “Tiếp sức mùa thi”, chiến dịch “Xuân tình nguyện”, chiến dịch tình nguyện Mùa hè xanh, Kỳ nghỉ hồng, Hành quân xanh, Hoa phượng đỏ…[61]
12. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội [62]
Vi phạm kinh tế và môi trường: Tình hình vi phạm trên lĩnh vực kinh tế vẫn tiềm ẩn nguy cơ cao trong các lĩnh vực, ngành nghề trọng điểm như tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, buôn lậu, gian lận thương mại phức tạp và tinh vi. Các ngành chức năng kiểm tra, xử lý các vụ vi phạm về kinh tế, đã phát hiện, xử lý 1.581 vụ, 1.390 đối tượng thu giữ nhiều loại hàng hóa, tang vật trị giá khoảng 102 tỷ đồng, khởi tố 144 vụ, 160 bị can.
Tình hình phạm pháp về môi trường và an toàn thực phẩm diễn ra tương đối phổ biến, gây bức xúc trong nhân dân; tình trạng các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh không xây dựng hệ thống xử lý nước thải, khí thải hoặc nếu có chỉ mang tính đối phó. Đã phát hiện 654 vụ vi phạm về môi trường, đề xuất xử phạt hành chính 497 vụ, thu nộp ngân sách nhà nước trên 26,9 tỷ đồng.
Phạm pháp hình sự: đã tăng cường lực lượng kiểm tra, tuần tra tập trung các địa bàn trọng điểm, phức tạp về hình sự; củng cố công tác quản lý hành chính, hộ khẩu, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, tội phạm hình sự tiếp tục diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Đã xảy ra 5.756 vụ phạm pháp hình sự (tăng 132 vụ so cùng kỳ), án trộm xe máy chiếm 55% số vụ, các băng nhóm, đối tượng hình sự từ các tỉnh, thành phố dịch chuyển vào Thành phố cấu kết hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, có tính chất phức tạp; tội phạm cướp giật xảy ra nhiều, nhất là khu vực trung tâm; đã điều tra khám phá 3.806 vụ (đạt tỷ lệ 66,12%), triệt phá 619 băng nhóm, bắt 1.850 tên.
Tình hình tội phạm ma túy diễn biến phức tạp và gia tăng; qua công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy đã phát hiện đường dây, tổ chức vận chuyển trái phép ma túy với số lượng lớn xuyên quốc gia, có yếu tố nước ngoài qua cửa khẩu hàng không Tân Sơn Nhất, các băng nhóm tội phạm ma túy liên tỉnh vận chuyển trái phép vào Thành phố để tiêu thụ. Đã điều tra, khám phá 1.662 vụ, bắt 3.350 tên, thu giữ khoảng 27,05 kg heroin, 13,1 kg cocain, 39,38 kg ma túy tổng hợp, 9,92 gram cần sa; 42,66 kg tiền chất PSE. Đã khởi tố 1.253 vụ, 1.742 bị can, xử lý hành chính 403 vụ với 1.608 đối tượng. Đã lập 532 hồ sơ đối tượng đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn, lập 520 hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc.
Thực hiện Nghị quyết số 77/2014/QH13 ngày 10 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015; ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; Kết luận chỉ đạo của Thường trực Thành ủy về việc đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào các trung tâm tiếp nhận, trong thời gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn Thành phố và Kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy về triển khai thực hiện các biện pháp tổng hợp đối với người nghiện ma túy và đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn ma túy; Ủy ban nhân dân Thành phố đã chỉ đạo các Sở - ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện tập trung đấu tranh phòng, chống và kiểm soát ma túy, đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vào các cơ sở xã hội để quản lý, điều trị cắt cơn, giải độc và tư vấn tâm lý trong thời gian chờ lập thủ tục để Tòa án nhân dân xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Kết quả từ ngày 05 tháng 12 đến ngày 28 tháng 12 năm 2014 như sau:
- Qua xét nghiệm đã phát hiện 2.565 người nghiện ma túy (dương tính);
- Đưa 1.468 người nghiện vào Cơ sở xã hội.
- Chuyển 1.082 người nghiện ma túy vị thành niên, phụ nữ mang thai, người có nơi cư trú ổn định về địa phương xử lý theo quy định.
- Đã chuyển 311 hồ sơ sang Tòa án nhân dân quận, huyện để xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong đó Tòa án nhân dân quận, huyện đã tổ chức phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với 20 người nghiện ma túy. (Đã chuyển 11 người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc).
Tình hình phòng, chống cháy nổ, cứu nạn, cứu hộ[63]: Đã tập trung tuyên truyền công tác phòng cháy chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn, tổ chức kiểm tra diễn tập các phương án chữa cháy, đã góp phần kéo giảm số vụ cháy nhưng số người chết và thiệt hại cao hơn so cùng kỳ.
- Xảy ra 246 vụ cháy (giảm 255 vụ, tỷ lệ 50,9%), chết 18 người và bị thương 12 người (tăng 10 người chết và giảm 08 bị thương); về tài sản ước tính thành tiền khoảng 44,980 tỷ đồng và 43 vụ chưa ước tính thành tiền.
- Xảy ra 05 vụ nổ (giảm 02 vụ, tỷ lệ 28,57%); làm chết 05 người và bị thương 03 người (giảm 08 người chết và 10 người bị thương); về tài sản khoảng 154 triệu đồng và 03 vụ chưa ước tính được thiệt hại thành tiền.
- Đã nhận 90 tin yêu cầu cứu nạn, cứu hộ (tăng 05 tin, tỷ lệ 5,58%). Đã điều động lực lượng, phương tiện triển khai cứu nạn, cứu hộ; đã cứu được 31 người và tìm được 37 thi thể nạn nhân bàn giao lại cho địa phương và gia đình xử lý.
Tình hình phòng chống thiên tai: Công tác phòng chống lụt bão, thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên địa bàn tiếp tục được triển khai hiệu quả. Đã tập trung đầu tư các công trình phòng, chống triều cường, sạt lở, đê bao kết hợp giao thông nông thôn góp phần hạn chế mức độ ảnh hưởng và thiệt hại do mưa lớn và triều cường gây ra.
Các lực lượng vũ trang đã thực hiện có hiệu quả Quy chế phối hợp hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng theo Nghị định 77/2010/NĐCP của Chính phủ; nắm chắc diễn biến tình hình, giải quyết kịp thời, hiệu quả các tình huống phức tạp xảy ra, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; thường xuyên thực hiện tốt chế độ giao ban, rút kinh nghiệm.
Đã triển khai hiệu quả công tác quân sự - quốc phòng địa phương, xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Hoàn thành việc xây dựng, củng cố quyết tâm tác chiến phòng thủ Thành phố, hệ thống văn kiện tác chiến và Quy hoạch thế trận quân sự khu vực phòng thủ, triển khai Dự án xây dựng công trình Sở Chỉ huy Thống nhất Thành phố. Đã chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển đảo. Tổ chức diễn tập kiểm tra phương án A2 cấp Thành phố, diễn tập khu vực phòng thủ năm 2014 cho các quận điểm: 1, 3, 5, 7, 12, Phú Nhuận, Tân Bình, Bình Thạnh; diễn tập điểm chiến đấu trị an cho phường Tân Tạo quận Bình Tân. Thực hiện tốt công tác xây dựng, quản lý lực lượng Dân quân tự vệ[64], dự bị động viên. Thực hiện có hiệu quả chính sách hậu phương quân đội[65]. Triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị 24 của Bộ Chính trị về tìm kiếm hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo[66].
Đã hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ 2 đợt năm 2014; tuyển được 4.970 quân, trong đó tỷ lệ đảng viên thi hành nghĩa vụ quân sự đạt 6,02%; đoàn viên đạt 93,98%; trình độ từ trung cấp trở lên chiếm 29,82%. Ngoài ra, đã giao 870 thanh niên phục vụ trong ngành công an. Đã hoàn chỉnh văn kiện phòng thủ của Thành phố, quận - huyện và quy hoạch khu vực phòng thủ; tổ chức diễn tập phòng, chống biểu tình gây rối bạo loạn, diễn tập phòng thủ theo kế hoạch.
Thành phố đã tăng cường các biện pháp công tác, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả, đảm bảo tuyệt đối an toàn các lễ hội, sự kiện chính trị quan trọng khác. Trên địa bàn đã phát sinh một số yếu tố phức tạp mới, việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo của Việt Nam, đã tạo sự phản ứng bất bình, phẫn nộ của nhân dân. Lợi dụng tình hình đó, một số đối tượng xấu đã kích động các phần tử xấu trong nước lôi kéo, kích động người dân, công nhân gây ra các vụ gây rối, chiếm đoạt, hủy hoại tài sản tại một số doanh nghiệp trên địa bàn. Thành phố đã chủ động triển khai các biện pháp chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, đấu tranh hiệu quả với các hoạt động vi phạm pháp luật, không để xảy ra tình hình phức tạp, đột biến bất ngờ; đảm bảo giữ vững ổn định an ninh chính trị trật tự xã hội trên địa bàn.
Đã tổ chức Hội nghị sơ kết công tác phối hợp giữa 04 lực lượng (Bộ Tư lệnh, Bộ đội Biên phòng, Công an, Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy Thành phố) trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng theo Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Lực lượng Biên phòng đã tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, nắm chắc diễn biến tình hình trên biển. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ các tàu quân sự nước ngoài, các tàu khách đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh, tập huấn nghiệp vụ cho lực lượng trực tiếp tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền các vùng biển.
a) Toàn Thành phố đã tổ chức tiếp 49.546 lượt công dân (tiếp thường xuyên 40.043 lượt, lãnh đạo tiếp 9.503 lượt), so cùng kỳ tăng 5.987 lượt, tăng 13%; tiếp công dân đoàn đông người 84 đoàn (tiếp thường xuyên 72 đoàn, lãnh đạo tiếp 12 đoàn), giảm 23 đoàn so cùng kỳ. Tiếp nhận 5.189 đơn thư khiếu nại, tố cáo (4.365 đơn khiếu nại, 824 đơn tố cáo), so cùng kỳ giảm 2.541 đơn khiếu nại, tố cáo (giảm 33%); đã xử lý 5.148/5.189 đơn, đạt tỷ lệ 99%, chuyển kỳ sau xử lý 41 đơn. Việc khiếu nại, tố cáo chủ yếu do một số hộ dân bị ảnh hưởng trong các dự án khi thu hồi đất, không đồng ý với giá bồi thường, hỗ trợ về đất và tái định cư nên phát sinh khiếu nại; ngoài ra do nhận thức của người dân đối với pháp luật về đất đai, pháp luật về khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế, một số trường hợp người dân hiểu rõ các quy định của pháp luật, song cố tình không chấp hành quyết định đã giải quyết đúng pháp luật.
Đội ngũ làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn của các đơn vị từng bước chuẩn hóa, thường xuyên tập huấn kỹ năng tiếp công dân, xử lý đơn; việc trao đổi nghiệp vụ, thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin quản lý hồ sơ tiếp công dân, xử lý đơn đã đi vào nền nếp và đáp ứng yêu cầu quản lý của Thành phố. Trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cấp, các ngành được nâng cao, nhiều quận - huyện không phát sinh mới các vụ việc phức tạp, đông người; các vụ việc khiếu nại, tố cáo mới phát sinh đã được tập trung giải quyết. Nhằm tăng cường công tác thanh tra trách nhiệm thủ trưởng cơ quan đơn vị trên địa bàn Thành phố trong việc thi hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Ủy ban nhân dân Thành phố đã chỉ đạo ngành Thanh tra tổ chức triển khai 19 đoàn thanh, kiểm tra trách nhiệm tại 61 đơn vị; đã kết thúc 13 đoàn/47 đơn vị; tiếp tục triển khai thực hiện 06 đoàn/14 đơn vị. Qua thanh tra đã giúp lãnh đạo Ủy ban nhân dân các quận - huyện, sở - ngành kịp thời chấn chỉnh những hạn chế bất cập, nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc chấp hành và thực hiện Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo. Đã ban hành Quyết định số 2573/QĐ-UBND ngày 26 tháng 5 năm 2014 về thực hiện Đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 - 2016”.
b) Năm 2014, toàn Thành phố đã thực hiện 261 cuộc thanh tra tại 395 đơn vị (có 32 cuộc thanh tra năm 2013 chuyển sang; 229 cuộc thanh tra triển khai trong năm 2014). Kết quả phát hiện 115/395 đơn vị có sai phạm kinh tế là 396,753 tỷ đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước 226,111 tỷ đồng. Thực hiện thanh tra, kiểm tra chuyên ngành với 41.490 cuộc (10.810 cuộc thành lập đoàn và 39.680 cuộc thanh tra độc lập).
c) Đã tổ chức hơn 1.130 cuộc tuyên truyền, phổ biến các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước về phòng, chống tham nhũng đến đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, các ban ngành đoàn thể và các tầng lớp nhân dân, với 63.830 lượt người tham dự. Thực hiện các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị: có 947 cơ quan, tổ chức, đơn vị được kiểm tra việc thực hiện các quy định về công khai, minh bạch, hầu hết các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt việc công khai, minh bạch. Việc cán bộ, công chức, viên chức nộp lại quà tặng: có 05 trường hợp nộp lại quà tặng với tổng giá trị là 4,8 triệu đồng; có 36 cơ quan, đơn vị báo cáo đã lập danh sách vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức phải chuyển đổi và đã tiến hành chuyển đổi 630 trường hợp. Kết quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng: Viện kiểm sát thụ lý kiểm sát điều tra 28 vụ - 64 bị can, đã giải quyết 19 vụ - 54 bị can, hiện còn 09 vụ - 10 bị can. So cùng kỳ năm trước, số lượng các vụ án liên quan đến tham nhũng có giảm; hầu hết các cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị đã chủ động hơn trong kiểm tra, thanh tra phát hiện xử lý kịp thời các hành vi tham nhũng; các ngành tư pháp đã tích cực điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nghiêm các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp.
15. Công tác đối ngoại với các địa phương trong nước và quốc tế
Thành phố đã đón tiếp 105 đoàn khách quốc tế, trong đó tiêu biểu là: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào, Chủ tịch Quốc hội Campuchia, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu, Chủ tịch Hạ viện kiêm Chủ tịch Quốc hội Myanmar… Lãnh đạo Thành phố đã có 101 cuộc tiếp khách, tiêu biểu là Đại sứ Cuba, Thụy Điển, Singapore, Hoa Kỳ, Anh, Tân Tổng Lãnh sự Nhật Bản… Lãnh đạo Thành phố đã dẫn đầu 19 đoàn đi công tác nước ngoài. Một số đoàn quan trọng như đoàn đại biểu Thành ủy đến thăm và làm việc tại Nhật Bản; tháp tùng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hàn Quốc; đoàn lãnh đạo Thành phố đến thăm và làm việc tại Liên bang Nga; đoàn Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố thăm và làm việc tại 3 nước Pháp, Đức, Bỉ…. để tăng cường mở rộng hợp tác phát triển, giới thiệu Thành phố, mời gọi đầu tư trong thời kỳ mới.
Công tác ngoại giao nhân dân, đặc biệt là công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được triển khai có hiệu quả.
16. Về thực hiện 6 chương trình đột phá
16.1. Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Đến đầu năm 2014, tất cả 6/6 chương trình nhánh đã được phê duyệt Kế hoạch thực hiện giai đoạn 2011 - 2015. Một số chương trình nhánh đã được triển khai một số bước trước khi ban hành Kế hoạch chính thức, nhưng vẫn đảm bảo phù hợp quy định và bám sát Kế hoạch theo Quyết định số 22/2011/QĐ-UBND giai đoạn 2011 - 2015. Quá trình thực hiện các chương trình nhánh, Thành phố đã kịp thời điều chỉnh, bổ sung một số chỉ tiêu thực hiện cho phù hợp với tình hình và quy định pháp luật.
Thành phố đã triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, công chức viên chức các sở - ngành, quận - huyện theo Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị thành phố năm 2014. Trong năm, Thành phố đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; kiến thức quản lý nhà nước; tập huấn, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về công tác cán bộ, công chức, viên chức; kỹ năng giao tiếp; xây dựng; nghiệp vụ đấu thầu, nghiệp vụ công tác Dân tộc, công tác Tổ chức nhà nước, tiếng Anh;... cho trên 21.530 lượt cán bộ, công chức, viên chức, trong đó, về lý luận chính trị: 3.445 lượt; quản lý nhà nước: 2.152 lượt; chuyên môn, nghiệp vụ: 10.321 lượt và ngoại ngữ; tin học: 1.718 lượt.
Đã thẩm định và tuyển chọn 38 trường hợp vào Chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ tuổi. Đã có trên 30 cán bộ được phân công, bố trí công tác tại các Sở - ngành, quận - huyện, các cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố. Số cán bộ trẻ được đưa về cơ sở đã phát huy tinh thần nhiệt huyết, tích cực học hỏi, rèn luyện về chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, có đóng góp tích cực vào việc hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ chung của cơ quan, đơn vị.
16.2. Chương trình cải cách hành chính: Tiếp tục triển khai quyết định số 7081/QĐ-UBND ngày 27 tháng 12 năm 2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Kế hoạch thực hiện công tác cải cách hành chính trên địa bàn Thành phố năm 2014. Đến nay, các sở - ngành Thành phố, 24/24 quận - huyện, 322/322 phường - xã, thị trấn đã áp dụng cơ chế “một cửa” trong giải quyết các thủ tục hành chính của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố theo thẩm quyền quy định. Đã sơ kết 01 năm thực hiện Quyết định 07/2013/QD-UBND ngày 20/9/2013 về ban hành quy chế thực hiện cơ chế một cửa liên thông nhóm thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực hộ tịch, bảo hiểm y tế và đăng ký quản lý cư trú trên địa bàn Thành phố. Qua kinh nghiệm của Thành phố, Chính phủ đã ban hành cơ chế cho cả nước thực hiện. Đã có 24/24 Ủy ban nhân dân quận - huyện đã triển khai quy trình liên thông hoàn chỉnh giữa Ủy ban nhân dân quận - huyện và Ủy ban nhân dân phường - xã, thị trấn trên lĩnh vực đất đai, xây dựng, đăng ký kinh doanh và đăng ký mã số thuế. Một số Ủy ban nhân dân quận - huyện đã tiến hành sơ kết, đánh giá kết quả tình hình thực hiện cơ chế “một cửa liên thông”, kiểm tra tiến độ giải quyết hồ sơ hành chính trên cơ sở đó có những điều chỉnh kịp thời.
Đến nay, việc thực hiện Đề án vị trí việc làm của các cơ quan, đơn vị cơ bản đảm bảo đạt yêu cầu tiến độ. Hầu hết các cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố đã triển khai, hoàn tất các bước và đang tổng hợp xây dựng Đề án chung của Thành phố. Đã phê duyệt Chương trình phát triển Công nghệ thông tin - truyền thông giai đoạn 2011 - 2015 để thực hiện Chương trình Cải cách hành chính. Các sở - ngành, Ủy ban nhân dân quận - huyện đã quan tâm, xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch cải cách hành chính theo phân công và chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố. Phần lớn các chương trình đề ra đến nay đều đã được các đơn vị triển khai thực hiện.
16.3. Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế thành phố đã góp phần quan trọng, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố theo đúng định hướng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX đề ra mặc dù một số chỉ tiêu chưa đạt do khó khăn chung của nền kinh tế thế giới và trong nước tác động. Nội bộ các ngành kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao. Từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phát triển theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, giảm dần các ngành thâm dụng lao động, tăng các ngành thâm dụng vốn và khoa học - kỹ thuật công nghệ cao, khai thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang phát triển theo chiều sâu; lấy chất lượng tăng trưởng là động lực chủ yếu để phát triển các ngành, lĩnh vực trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, ít gây ô nhiễm môi trường; sử dụng nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái. Đến nay, Thành phố đã ban hành và triển khai thực hiện 67/72 chương trình, đề án nhằm hỗ trợ chuyển cơ cấu kinh tế Thành phố.
16.4. Chương trình giảm ùn tắc giao thông: Thành phố đã chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp, nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông để kéo giảm ùn tắc và tai nạn giao thông trên cả 3 mặt trong năm 2014 (giảm từ 5% - 10% so năm 2013). Tập trung thực hiện Chương trình giảm ùn tắc và tai nạn giao thông năm 2014 gắn với với chủ đề “Siết chặt quản lý hoạt động vận tải và kiểm soát tải trọng phương tiện”, nâng cao năng lực hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm cá nhân của người làm công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Đã tổ chức khảo sát tại 03 cửa ngõ của Thành phố có tỉ lệ tai nạn giao thông cao để triển khai các giải pháp kiềm chế nhằm kéo giảm tai nạn giao thông. Kết quả đến cuối năm 2014:
+ Về giảm ùn tắc giao thông: xảy ra 01 vụ ùn tắc kéo dài trên 30 phút tại khu vực vòng xoay Lăng Cha Cả, tăng 01 vụ so cùng kỳ năm 2013; ngoài ra chỉ xảy ra tình trạng ùn ứ cục bộ tại một số khu vực ngập do mưa và triều cùng lúc.
+ Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông kéo giảm trên cả 3 mặt. Đã xảy ra 3.416 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 581 người và bị thương 3.195 người, so cùng kỳ năm 2013 giảm 793 vụ (18,84%), giảm 76 người chết (11,57%) và giảm 532 người bị thương (14,27%). Tai nạn giao thông đường sắt xảy ra 01 vụ (giảm 6 vụ so cùng kỳ, tỷ lệ 86%), làm chết 01 người (giảm 6 người so cùng kỳ). Xảy ra 05 vụ va chạm giao thông đường thủy, không gây thiệt hại về người.
Từ đầu năm đến nay đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 19 công trình giao thông (trong đó có 6 công trình sử dụng nguồn vốn ODA), góp phần giảm tải áp lực giao thông Thành phố như: cầu Lê Văn Sỹ, cầu Bông, cầu Hậu Giang, cầu Kiệu, cầu Ông Buông, đường Phạm Văn Đồng; cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện mặt đường vành đai phía Đông; đường Nguyễn Thị Thập; nút giao giữa đường cao tốc và đường vành đai 2; đặc biệt đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thanh - Dầu Giây đã hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần phát triển kinh tế ở phía Đông của Thành phố với các tỉnh.
16.5. Chương trình giảm ngập nước: Trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 83 trận mưa với 18 trận mưa gây ngập, số trận mưa gây ngập năm 2014 giảm so cùng kỳ các năm 2011, 2012 và 2013. Đã tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành cơ bản 10 dự án chuyển tiếp; kịp thời đưa công trình vào khai thác sử dụng, đảm bảo khả năng thoát nước, chống ngập úng cho lưu vực, phát huy nhiệm vụ công trình như: hoàn thành dự án cải tạo hệ thống thoát nước đường Trần Hưng Đạo, Quận 5 (từ đường Châu Văn Liêm đến đường Học Lạc) và cải tạo hệ thống thoát nước đường Tân Hòa Đông (từ An Dương Vương đến vòng xoay Phú Lâm)....
Đã triển khai thực hiện công tác duy tu, sửa chữa, nạo vét hệ thống thoát nước có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vị trí thường xuyên bị ngập nước. Thành phố đã xử lý cơ bản 01 điểm ngập (Tỉnh lộ 43, quận Thủ đức); tiếp tục tập trung nguồn lực triển khai thực hiện 05 điểm còn lại đã đăng ký xóa giảm ngập năm 2014 gồm: Đường Đỗ Xuân Hợp (Quận 9); Quốc lộ 1A; Nguyễn Văn Quá (Quận 12); Quang Trung (quận Gò Vấp); Kinh Dương Vương (quận Bình Tân). Ngoài ra, xuất hiện tái ngập tại 22 điểm do ảnh hưởng dẫn dòng thi công dự án (12 điểm ngập vừa do chặn dòng thi công dự án; 10 điểm tái ngập). Tiếp tục phát huy hiệu quả các biện pháp xử lý cấp bách, hạn chế thấp nhất tình trạng ngập trong khi chờ các công trình, dự án lớn phát huy tác dụng, ngăn chặn phát sinh điểm ngập mới; đảm bảo vận hành ổn định các trạm bơm, nhà máy xử lý nước thải; ứng cứu kịp thời khi gặp tổ hợp bất lợi mưa vượt tần suất cùng lúc thủy triều dâng cao.
16.6. Chương trình giảm ô nhiễm môi trường: Thành phố quan tâm thực hiện việc hoàn thiện hệ thống pháp lý về môi trường nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức và cá nhân, góp phần bảo vệ sức khỏe, nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Chương trình phân loại chất thải rắn tại nguồn tiếp tục được đẩy mạnh tại các chợ, siêu thị, khu chế xuất khu công nghiệp, các bệnh viện; đã triển khai phân loại rác tại nguồn tại Khu A - khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng (Quận 7); tiếp tục xem xét thí điểm chương trình phân loại rác tại nguồn hộ gia đình.
Tỷ lệ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn đô thị đạt 100%. Đối với chất thải nguy hại, hiện nay, việc thu gom, phân loại và tái chế đạt tỷ lệ 100%. Công tác thu gom vận chuyển và xử lý chất thải y tế đạt tỷ lệ 100%. Riêng tỷ lệ xử lý nước thải y tế đạt 99,7%[67], chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra do còn 3 bệnh viện trực thuộc Trung ương quản lý chưa hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường mặc dù Thành phố thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở cũng như có văn bản kiến nghị với các Bộ ngành chủ quản khẩn trương thực hiện. Tình hình xử lý nước thải tại các khu công nghiệp - khu chế xuất đạt tỷ lệ 100%. Đến nay có 35/37 cơ sở đã cơ bản thực hiện xong xử lý ô nhiễm triệt để, đạt tỷ lệ 95%, chưa hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra do còn 2 cơ sở thuộc Bộ ngành Trung ương quản lý đã khắc phục, xử lý ô nhiễm nhưng chưa triệt để cần tiếp tục thực hiện[68]. Nhìn chung, các chỉ tiêu về môi trường đạt kế hoạch đề ra, trừ chỉ tiêu về tỷ lệ xử lý nước thải y tế và chỉ tiêu về tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý.
- Tình hình triển khai chương trình ứng phó biến đổi khí hậu Thành phố: Là một đô thị lớn đang trên đà phát triển với nhu cầu phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực, Thành phố đang phải đối mặt với những thách thức từ các tác động và rủi ro của biến đổi khí hậu. Đã tập trung xây dựng các văn bản chỉ đạo, kế hoạch thực hiện về vấn đề chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, như ban hành Quyết định số 2838/QĐ-UBND ngày 11 tháng 06 năm 2014 về ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 34-CTrHĐ/TU của Thành ủy và Nghị quyết số 08/NQ-CP của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội Nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đã tăng cường tuyên truyền về biến đổi khí hậu đến các tầng lớp nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài; chuẩn bị tổ chức hội thi, tập huấn, tìm hiểu kiến thức về biến đổi khí hậu. Đã tăng cường công tác phối hợp với các tổ chức quốc tế trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
1. Những mặt được và nguyên nhân:
Năm 2014, trước tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, kinh tế trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, lãnh đạo Thành phố đã chủ động nắm bắt tình hình, kịp thời chỉ đạo giải quyết các vướng mắc, tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết hàng tồn kho, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp… nhờ có các giải pháp tích cực[69], tăng trưởng kinh tế của Thành phố quý sau cao hơn quý trước, và năm 2014 tăng trưởng kinh tế Thành phố đạt 9,6%, sau 3 năm phục hồi chậm (năm 2011 là 10,3%; năm 2012 là 9,2% và năm 2013 là 9,3%), góp phần cùng cả nước phục hồi tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Cơ cấu kinh tế Thành phố chuyển dịch đúng hướng, mô hình tăng trưởng từng bước đi vào chiều sâu, nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP)[70] và năng lực cạnh tranh[71], cơ cấu và tỷ lệ các ngành dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp phát triển ổn định. Việc triển khai thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế Thành phố có kết quả bước đầu, đầu tư trong nước và nước ngoài đạt kết quả cao, công nghiệp hỗ trợ được quan tâm. Thu ngân sách đạt và vượt dự toán. Chương trình xây dựng nông thôn mới lồng ghép với các chương trình an sinh xã hội, chương trình giảm hộ nghèo, tăng hộ khá đạt những kết quả đáng ghi nhận.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, phát triển đô thị; đã phủ kín quy hoạch 1/2000 các khu vực trên địa bàn Thành phố; tích cực triển khai sớm, đi đầu thực hiện chương trình trọng điểm phát triển nhà ở của Chính phủ; tăng cường đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng đô thị, xử lý ô nhiễm môi trường, chú trọng tôn tạo, giữ gìn các di sản văn hóa lịch sử, các công trình kiến trúc có giá trị. Nhiều khu dân cư được cải tạo, chỉnh trang, một số khu, cụm đô thị mới được xây dựng khang trang, diện mạo đô thị đã có nhiều thay đổi theo hướng văn minh đô thị.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục có nhiều tiến bộ. Đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Tình hình thị trường lao động ổn định, số lao động đến đăng ký thất nghiệp giảm. Công tác chăm lo cho các đối tượng diện chính sách và người nghèo, các chính sách ưu đãi xã hội (cấp thẻ bảo hiểm y tế, miễn học phí,…) được quan tâm thực hiện, kịp thời giúp người nghèo an tâm ổn định cuộc sống. Công tác giáo dục và đào tạo đạt nhiều kết quả tích cực. Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, chủ động, quyết liệt thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, phòng bệnh, giải quyết việc chữa bệnh cho người dân, hạn chế thấp nhất tỷ lệ tử vong; bước đầu thực hiện có hiệu quả chuỗi thực phẩm an toàn. Bước đầu thực hiện tốt công tác đấu thầu thuốc, làm lợi cho nhà nước và nhân dân.
Các hoạt động đối ngoại của Thành phố được triển khai chu đáo, đảm bảo hiệu quả và đồng bộ trên ba kênh ngoại giao của Đảng bộ, Chính quyền, nhân dân. Quan hệ đối ngoại của Thành phố tiếp tục mở rộng từ song phương đến đa phương trên tất cả các lĩnh vực, trãi rộng trên nhiều địa bàn. chủ động đẩy mạnh ngoại giao kinh tế với ngoại giao văn hóa và đối ngoại nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Đã tập trung giữ vững ổn định chính trị, kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, hoạt động gây mất ổn định và trật tự xã hội, bảo vệ tài sản và tính mạng nhân dân; tình hình an toàn giao thông tiếp tục được kéo giảm cả 3 mặt.
Công tác chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện có nhiều chuyển biến, đặc biệt là tập trung cải cách hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo, tiếp công dân, công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; trách nhiệm người đứng đầu được nâng lên.
* Nguyên nhân đạt được:
- Trong chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Thành phố là luôn theo dõi sát sao, chia sẻ, đồng hành cùng với cộng đồng doanh nghiệp, thực hiện nhiều biện pháp để tháo gỡ, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh.
- Lãnh đạo Thành phố đã chủ động đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp tổ chức thực hiện, phù hợp với điều kiện của Thành phố nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường (cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp; hỗ trợ lãi suất cho các dự án thông qua chương trình kích cầu đầu tư; hỗ trợ doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại và đầu tư; xây dựng thương hiệu; thực hiện quyết liệt chương trình bình ổn thị trường; thực hiện chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp…).
- Đã thường xuyên kiểm tra, giám sát cơ sở trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao; theo dõi chặt chẽ tiến độ thực hiện 6 Chương trình đột phá và các công trình trọng điểm để tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ; thường xuyên sơ kết đánh giá việc thực hiện các chương trình, công trình.
2. Hạn chế, yếu kém: Bên cạnh những nỗ lực và kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội bộc lộ một số hạn chế, yếu kém:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế phục hồi chậm, thiếu vững chắc; tổng cầu của nền kinh tế còn yếu. Tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn. Hoạt động xuất khẩu có tăng trưởng nhưng phần lớn mặt hàng xuất khẩu là gia công, giá trị gia tăng không cao, thiếu sản phẩm chiến lược.
Chất lượng và hiệu quả trên một số lĩnh vực công tác chưa cao, thiếu đồng bộ (công tác giải phóng mặt bằng, việc giải quyết các điểm ngập nước, cấp nước sạch cho nhân dân...). Một số mô hình chậm nhân rộng (thư xin lỗi, phân loại chất thải tại nguồn…). Đời sống của người lao động, công nhân chưa được cải thiện nhiều.
Tình hình phạm pháp hình sự có chiều hướng gia tăng, chủ yếu là trộm cắp. Tệ nạn xã hội chuyển biến phức tạp, nhất là ma túy, mại dâm gây tâm lý lo lắng, bất ổn trong xã hội. Tình hình cháy, nổ trên địa bàn Thành phố tuy có giảm về số vụ nhưng thiệt hại về người tăng so cùng kỳ.
Công tác cải cách hành chính có sự nỗ lực nhưng chưa đều ở một số quận - huyện và ngành. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân của một số đơn vị chưa hiệu quả, thiếu sự quan tâm.
Ý thức trách nhiệm của cộng đồng về bảo vệ môi trường tuy có chuyển biến nhưng chưa hình thành thói quen thường xuyên trong sinh hoạt, tính tự giác của một số doanh nghiệp chưa cao nên tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn còn diễn ra ở một số khu vực; trong khi công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập; xử lý vi phạm về ô nhiễm môi trường cũng chưa nghiêm.
* Nguyên nhân hạn chế:
- Về khách quan: Do kinh tế thế giới còn khó khăn, đã ảnh hưởng đến thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong nước, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; những rủi ro do thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân.
- Về chủ quan: Công tác dự báo, phân tích, đánh giá tình hình có mặt chưa sát thực tế, các giải pháp tháo gỡ còn chậm, thiếu tính khả thi; một số đề án, chương trình tham mưu chậm. Sự phối hợp công tác giữa một số Sở, ban, ngành và địa phương thiếu đồng bộ, làm hạn chế kết quả trên một số lĩnh vực.
Do Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, công việc rất nhiều và phức tạp nên công tác chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân Thành phố đôi khi không đủ thời gian, thiếu đeo bám, xử lý quyết liệt đã ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công việc.
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NĂM 2015
Năm 2015 là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Việc thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2015 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo thế và lực mới để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Kế hoạch 5 năm 2016 - 2020, vì vậy phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và ngân sách năm 2015 cần phải được đặt ra là:
Tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế tăng trưởng hợp lý, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế trong quá trình hội nhập, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; thực hiện có hiệu quả 6 chương trình đột phá; đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường - ứng phó với biến đổi khí hậu; đảm bảo quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; tiếp tục chủ động hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, khắc phục các yếu kém tồn tại, tăng cường cải cách hành chính, cải cách tư pháp, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân và trách nhiệm người đứng đầu. Phát động mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước, tổ chức tốt các ngày Lễ lớn, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch nhiệm vụ năm 2015.
II. Các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2015 (25 chỉ tiêu)
a) Các chỉ tiêu kinh tế (05 chỉ tiêu)
(1) Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên địa bàn tăng từ 9,5% trở lên.
(2) Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm khoảng 30% GDP.
(3) Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn cả nước.
(4) Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu: 8% - 10%.
(5) Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn (không tính ghi thu ghi chi): 265.776 tỷ đồng.
b) Các chỉ tiêu xã hội (8 chỉ tiêu):
(1) Số lao động được tạo việc làm mới: 120.000 người.
(2) Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo nghề: 72%.
(3) Tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 4,6%.
(4) Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí thành phố giảm còn dưới 1%.
(5) Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng dưới 8%.
(6) Số giường bệnh trên 10.000 dân: 42 giường.
(7) Số bác sĩ trên 10.000 dân: 15 bác sĩ.
(8) Diện tích nhà ở bình quân đầu người: 17m2/người.
c) Các chỉ tiêu môi trường (12 chỉ tiêu):
(1) Phấn đấu các hộ dân thành phố được sử dụng nước sạch hoặc nước hợp vệ sinh: 100%.
(2) Tỷ lệ diện tích che phủ rừng và cây xanh phân tán quy đổi trên tổng diện tích đất tự nhiên đến cuối năm 2015 đạt 40%.
(3) Tỷ lệ chất thải rắn thông thường ở đô thị được thu gom, xử lý: 100%.
(4) Tỷ lệ chất thải rắn nguy hại được thu gom, xử lý: 100%.
(5) Tỷ lệ chất thải rắn y tế được thu gom, xử lý: 100%.
(6) Tỷ lệ Khu chế xuất, Khu công nghiệp đang hoạt động đảm bảo có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường: 100%.
(7) Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý: 95%.
(8) Tỷ lệ xử lý nước thải y tế: 100%.
(9) Phấn đấu xóa 49/58 điểm ngập do mưa (kể cả 33 điểm tái ngập) và 21/29 điểm ngập phát sinh mới do mưa.
(10) Số lượt người sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng: tối thiểu 600 triệu lượt người.
(11) Kìm hãm và giảm dần số vụ ùn tắc giao thông trên 30 phút.
(12) Giảm từ 5% trở lên số vụ, số người chết và số người bị thương do tai nạn giao thông so với năm 2014.
a) Triển khai hiệu quả các giải pháp chính sách của Trung ương, đồng thời đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, tập trung nguồn lực thực hiện Đề án Tái cấu trúc kinh tế Thành phố giai đoạn 2013 - 2020. Chủ động, triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, nhanh chóng sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, hiệu quả; đẩy mạnh cổ phần hóa, bán phần vốn nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả theo nguyên tắc thị trường[72]. Kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện công khai, minh bạch về kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các thủ tục hành chính nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Tập trung vào các giải pháp về giảm chi phí gia nhập thị trường, đất đai; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư nâng cao chất lượng hoạt động để tăng hiệu quả đầu tư nước ngoài và giúp phát triển các ngành quan trọng của Thành phố.
b) Phát triển Thương mại - Dịch vụ: Phấn đấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 12% - 14% so cùng kỳ. Thúc đẩy phát triển hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ; phát triển thương mại điện tử và các mô hình phân phối, giao dịch hiện đại trong hoạt động thương mại. Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” gắn với việc thực hiện các Chương trình bình ổn thị trường nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội; không để tăng giá đột biến, đảm bảo các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày của người dân. Tăng cường thực hiện Chương trình kết nối cung - cầu với các tỉnh, thành phố trong cả nước để kết nối doanh nghiệp thông qua hợp tác thương mại nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp các địa phương.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường truyền thống, thị trường mới có nhiều tiềm năng với những ngành hàng, mặt hàng phù hợp. Đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, nhập khẩu, không để phụ thuộc vào một thị trường. Đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu các ngành dịch vụ theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô và sơ chế; thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ, thiết bị công nghệ lạc hậu, hàng hóa vật tư trong nước đã sản xuất được, ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến; phát triển xuất khẩu theo hướng bền vững, theo dõi biến động giá cả các hàng hoá nhập khẩu thiết yếu và dự báo biến động giá cả để có hướng tập trung xuất khẩu các mặt hàng có nhu cầu lớn, có giá cao.
Tăng cường quản lý thị trường, ngăn chặn có hiệu quả các hành vi gian lận thương mại như: hàng giả, hàng kém chất lượng, trốn thuế, lậu thuế, thao túng thị trường trong, buôn lậu. Tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát giá cả, thị trường, tổ chức triển khai cho các doanh nghiệp đăng ký giá một số mặt hàng quan trọng; theo dõi biến động giá cả các hàng hóa thiết yếu và dự báo biến động giá cả, đặc biệt trong các dịp lễ; xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý giá.
Tập trung hổ trợ phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có giá trị gia tăng cao như du lịch, viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Thúc đẩy tăng trưởng du lịch bền vững, phát huy tiềm năng và lợi thế, đẩy mạnh liên kết vùng, nâng cao chất lượng và phát triển, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tạo động lực thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển, xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu du lịch của Thành phố. Tiếp tục triển khai chương trình “Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm với môi trường”; tăng cường công tác an ninh du lịch, góp phần tăng sức hấp dẫn cho điểm đến Thành phố. Triển khai có hiệu quả các hoạt động văn hóa giải trí kết hợp với phát triển du lịch, xây dựng Thành phố là một trung tâm du lịch nhiều loại hình của cả nước và khu vực. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến du lịch, chương trình hợp tác phát triển du lịch với các đơn vị tỉnh, thành bạn và các quốc gia trong khu vực. Nâng chất các sự kiện văn hóa, du lịch được tổ chức định kỳ và các sản phẩm du lịch thể hiện đặc trưng của Thành phố[73]. Phấn đấu năm 2015, tổng doanh thu du lịch đạt 98.280 tỷ đồng (tốc độ tăng trưởng 8%), tổng số khách quốc tế đạt 4,7 triệu lượt (tốc độ tăng trưởng đạt 7%) và lượng khách du lịch nội địa đạt 19,3 triệu lượt, tăng 10% so cùng kỳ.
c) Tập trung phát triển những ngành công nghiệp Thành phố có lợi thế cạnh tranh trên cơ sở khai thác một cách hiệu quả nguồn nhân lực trình độ cao. Phát triển công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng, năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Tiếp tục đẩy mạnh và kết hợp phát triển công nghiệp phụ trợ của 4 ngành công nghiệp trọng yếu (cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, hóa dược - cao su, chế biến tinh lương thực, thực phẩm). Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, giảm mạnh tỷ lệ công nghiệp khai thác, tăng tỷ lệ công nghiệp chế biến, chế tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao, các ngành công nghiệp chế tạo phát triển, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm gia công, lắp ráp; hạn chế đầu tư mới những ngành công nghiệp thâm dụng lao động gia công, sơ chế và khai thác tài nguyên, có giá trị gia tăng thấp. Phấn đấu chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) tăng 7% so năm 2014.
Xây dựng và triển khai kế hoạch khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng nguồn lực, công nghệ, vật tư, thiết bị máy móc sản xuất trong nước đạt tiêu chuẩn, giảm dần nhập khẩu. Xây dựng cơ sở dữ liệu và cung cấp thông tin về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước; các cơ chế chính sách hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tài chính và triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, tổ chức sản xuất, quản lý chất lượng… đảm bảo yêu cầu cung ứng của các nhà đầu tư công nghệ cao. Duy trì tỷ trọng một số sản phẩm công nghiệp truyền thống: may mặc, giày da phục vụ nhu cầu trong nước và mở rộng xuất khẩu. Lựa chọn một số công đoạn có giá trị gia tăng cao trong các ngành công nghiệp khác để đầu tư, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu các sản phẩm công nghiệp: công nghiệp chế biến sản phẩm cao cấp công nghệ cao từ cao su; công nghiệp thời trang ngành dệt may; các công đoạn thiết kế, tiếp thị, phân phối… trong các ngành công nghiệp khác. Phát triển mạnh các khâu thiết kế, tạo mẫu, marketing, xây dựng thương hiệu, nhằm tạo dựng nhiều thương hiệu có uy tín trên thị trường trong nước, khu vực, thế giới.
Tăng cường công tác tiếp xúc, nắm bắt và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là về vốn, mặt bằng và đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu để tăng năng lực sản xuất của ngành công nghiệp.
Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin theo định hướng Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Bộ Chính trị khóa XI về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập. Trong đó, tập trung triển khai đồng bộ các dự án, chương trình nhánh thuộc Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch Thành phố; thúc đẩy và tìm kiếm thị trường cho sản phẩm điện tử dùng chíp do Việt Nam nghiên cứu và sản xuất; tập trung xây dựng Công viên phần mềm Quang Trung 2, liên kết với các địa phương xây dựng chuỗi công viên phần mềm Quang Trung; xây dựng thương hiệu sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin. Hoàn thành quy hoạch ngành công nghệ thông tin, Quy hoạch hạ tầng viễn thông thụ động đến năm 2025.
Điều chỉnh quy hoạch các Khu công nghiệp, Khu chế xuất và cụm công nghiệp phát triển theo hướng xanh, đổi mới trang thiết bị, tăng năng lực cạnh tranh. Tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp chuyên ngành để tạo điều kiện thuận lợi ứng dụng công nghệ cao. Tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng Khu công nghệ cao giai đoạn 1 và chuẩn bị xây dựng cơ sở hạ tầng giai đoạn 2 để thu hút đầu tư lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao. Tăng cường công tác đảm bảo an toàn, an ninh cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Khu công nghiệp, khu chế xuất.
Hiện đại hóa lưới điện, đảm bảo vận hành linh hoạt và có dự phòng; từng bước ngầm hóa lưới điện phân phối trung hạ thế, hoàn tất chỉnh trang làm gọn dây thông tin trên trụ điện, kết hợp thực hiện đồng bộ với các chương trình chỉnh trang đô thị và quy hoạch xây dựng các khu dân cư mới hiện đại, góp phần nâng cao mỹ quan đô thị. Phấn đấu sản lượng điện thương phẩm đạt 19,4 tỷ kWh, sản lượng điện nhận đạt 20,5 tỷ kWh, tỷ lệ tổn thất điện năng giảm còn 5,05%. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, thực hiện sử dụng điện hiệu quả, tiết kiệm, an toàn và nghiên cứu sử dụng năng lượng mới, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của Thành phố.
d) Phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, ổn định bền vững. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp năm 2015 đạt trên 6%. Tiếp tục đầu tư hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất giống cây, giống con mới có chất lượng và năng suất cao, giá trị thương phẩm cao, ưu tiên các sản phẩm chủ lực, có khả năng cạnh tranh, từng bước hình thành Trung tâm giống cây, giống con của khu vực. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy sản theo hướng gắn liền với đặc trưng của đô thị lớn là nông nghiệp sạch, không gây ô nhiễm môi trường, tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, công tác dự báo, kết hợp xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai các chương trình phát triển rau an toàn, bò sữa, thủy sản, hoa - cây cảnh - cá kiểng, cá sấu, giống cây, giống con chất lượng cao; các Đề án nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm đối với nông sản thực phẩm, Đề án giám sát dịch tễ; bảo vệ và phát triển các loại rừng, cây xanh. Phấn đấu đến cuối năm 2015, diện tích hoa - cây kiểng đạt trên 2.200 ha, cá kiểng đạt 100 triệu con, diện tích gieo trồng rau đạt 16.000 ha, duy trì đàn bò sữa ở mức 99.000 con, đàn heo khoảng 360.000 con, đàn cá sấu trên 190.000 con…
Phối hợp các ngành, các quận - huyện rà soát, xác định các vùng sản xuất nông nghiệp ổn định, tập trung sau năm 2020, đặc biệt các vùng ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, sản xuất giống chất lượng cao, những vùng thực hiện các dịch vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là dịch vụ phục vụ đầu ra như bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, có cơ sở hạ tầng kết nối giữa Thành phố với các tỉnh.
Đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình, dự án trọng điểm như Khu Nông nghiệp công nghệ cao, Trung tâm Giao dịch, triển lãm nông sản Thành phố, Trung tâm Công nghệ sinh học, Trung tâm Thủy sản Thành phố; các công trình chống ngập, phòng, chống lụt bão, triều cường, xâm nhập mặn kết hợp giao thông nông thôn. Phát huy hiệu quả Trạm Kiểm dịch thực vật nội địa, Trung tâm Quản lý, Kiểm định giống cây trồng, vật nuôi, Trạm kiểm dịch Thủy sản Cần Giờ và các công trình hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp khác. Đầu tư đồng bộ hóa cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, trọng tâm tại các xã thí điểm mô hình nông thôn mới; các cơ sở bảo quản và chế biến sau thu hoạch; kiên cố hóa hệ thống thủy lợi đến nội đồng; các công trình, dự án phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển. Nghiên cứu và thực hiện các biện pháp phòng chống ngập úng, cải tạo, bồi dưỡng đất sản xuất, hạn chế ảnh hưởng xâm nhập mặn, chống xói lở…
Tiếp tục chủ động thực hiện quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm và dịch hại trên cây trồng, đảm bảo an toàn thực phẩm, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Tăng cường công tác phòng, chống thiên tai, lụt bão, cứu hộ, cứu nạn ... Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao tỷ lệ che phủ rừng. Tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng. Phấn đấu cuối năm 2015, tỷ lệ diện tích che phủ rừng và cây xanh phân tán quy đổi trên tổng diện tích đất tự nhiên trên địa bàn Thành phố đạt 40%, trong đó độ che phủ rừng đạt 16,46%.
Thực hiện các đề án, chương trình phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn đến năm 2020. Đẩy nhanh thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Tập trung các giải pháp nhằm phấn đấu cơ bản hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới ở tất cả các xã của Thành phố, tiếp tục nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn tiếp theo.
2. Huy động nguồn lực và đầu tư phát triển:
Tăng cường quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị của Thành phố, tiếp tục triển khai bố trí vốn hiệu quả và tiết kiệm; tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước. Tăng cường công tác giám sát, đánh giá đầu tư để đảm bảo thực hiện đầu tư đúng quy hoạch, kế hoạch được duyệt.
Thúc đẩy quá trình tái cơ cấu đầu tư công theo hướng loại bỏ những dự án chưa thực sự cấp bách, đồng thời sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cho phát triển kinh tế ở tất cả các ngành, lĩnh vực, đặc biệt đề ra các giải pháp phù hợp để thu hút mạnh các nguồn lực ngoài nhà nước cho đầu tư phát triển. Tranh thủ tối đa các nguồn vốn ODA để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quy mô lớn. Đẩy mạnh thu hút và nâng cao chất lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Ưu tiên vốn để tập trung thực hiện 6 Chương trình đột phá. Điều hành kế hoạch đầu tư có hiệu quả, trên cơ sở xem xét tính hiệu quả và danh mục ưu tiên trong quy hoạch và trong Kế hoạch thực hiện giai đoạn 2011 - 2015; tập trung ưu tiên bố trí vốn cho các công trình dự kiến thi công hoàn thành trong năm 2015. Lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực, uy tín, khắc phục tình trạng yếu kém về năng lực tài chính, thi công, yếu kém về công nghệ, kéo dài thời gian thi công như hiện nay. Tiếp tục chú trọng đầu tư cho lĩnh vực đầu tư phát triển, cải thiện nâng cấp hạ tầng giao thông - hạ tầng đô thị, ưu tiên đầu tư phát triển lĩnh vực giáo dục - y tế, bảo vệ môi trường ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, phát triển bền vững.
Tập trung rà soát, đề xuất bổ sung điều chỉnh các cơ chế chính sách phù hợp với tình hình thực tế, đặc biệt các cơ chế chính sách thông thoáng để khuyến khích nhà đầu tư tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông bằng các hình thức như: PPP, BOT, BTO, BT. Tiếp tục tăng cường thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ của xe buýt; xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện điều chỉnh hoạt động các bến xe buýt Chợ Lớn, Quận 8, Công viên 23/9 theo mô hình phục vụ mới đảm bảo vệ sinh, an ninh trật tự và thuận lợi cho người dân sử dụng. Cải thiện cơ sở hạ tầng vận tải hành khách công cộng hiện hữu, trạm dừng, nhà chờ, bến bãi hoạt động buýt, đa dạng hóa các loại hình vận tải.
Tiếp tục thực hiện Chương trình phát triển nhà ở theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần IX, trong đó xác định tổng diện tích sàn xây dựng mới trong giai đoạn 2011 - 2015 năm đạt 39 triệu m2 (trong năm 2015, phát triển thêm 7 triệu m2), nâng diện tích bình quân đầu người là 17 m2/người. Triển khai thực hiện “Đề án phát triển thị trường bất động sản trên địa bàn Thành phố”.
Triển khai có hiệu quả các chính sách ưu tiên hỗ trợ lãi suất vay vốn kích cầu Thành phố theo Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND và Quyết định số 38/2013/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố đối với các dự án thuộc chương trình nhà ở ký túc xá cho sinh viên, nhà lưu trú cho công nhân và nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp theo chủ trương của Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2009 của Chính phủ và Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ, góp phần đáp ứng nhu cầu chỗ ở và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người dân Thành phố.
3. Thu - chi ngân sách, hoạt động tín dụng:
Tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình tín dụng theo chủ trương chính sách của Thành phố như: Chương trình kết nối doanh nghiệp - ngân hàng, chương trình cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên, chương trình bình ổn thị trường, chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở, chương trình cho vay đối với các doanh nghiệp trong khu chế xuất - khu công nghiệp, cho vay các dự án kích cầu, chương trình “ngân hàng với sự nghiệp”. Tập trung triển khai các giải pháp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để thực hiện đúng kế hoạch và lộ trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, bảo đảm an toàn hệ thống, thúc đẩy tín dụng cho nền kinh tế; theo dõi diễn biến tình hình nợ xấu phát sinh và công tác xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Tăng cường các biện pháp để quản lý, khai thác và bồi dưỡng nguồn thu, chống thất thu; tăng cường công tác thu nợ và cưỡng chế nợ, đôn đốc thu kịp thời số phát sinh và số nợ thuế vào ngân sách nhà nước. Tập trung công tác thanh tra, kiểm tra thuế; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về thu ngân sách nhà nước. Tổ chức thanh tra, kiểm tra chuyên sâu theo từng ngành, từng lĩnh vực trọng điểm, đặc biệt là các hoạt động chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền thương mại nhằm ngăn chặn các hành vi gian lận thuế, chống thất thu ngân sách. Phấn đấu đạt và vượt kế hoạch dự toán ngân sách được giao. Quản lý chi ngân sách hiệu quả, tiết kiệm. Tiếp tục tập trung xử lý các khoản nợ tạm ứng ngân sách, thanh quyết toán các công trình, dự án, thu hồi vốn để bổ sung nguồn chi đầu tư phát triển; thường xuyên rà soát tình hình xử lý, thu hồi tạm ứng.
4. Bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững:
Tiếp tục triển khai các chỉ đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (Quyết định số 26/2011/QĐ-UBND ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Ủy ban nhân dân Thành phố về Chương trình giảm ngập nước giai đoạn 2011-2015; Quyết định số 27/2011/QĐ-UBND ngày 14 tháng 5 năm 2011 của Ủy ban nhân dân Thành phố về Chương trình giảm ô nhiễm môi trường giai đoạn 2011-2015; Quyết định số 2484/QĐ-UBND ngày 15 tháng 5 năm 2013 của Ủy ban nhân dân Thành phố về ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015; Quyết định số 2838/QĐ-UBND TP ngày 11 tháng 6 năm 2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố về ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động số 34-CTrHĐ/TU ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Chương trình hành động số 24-CTr/TU ngày 26 tháng 10 năm 2007 của Thành uỷ thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về chiến lược biển Việt Nam trên địa bàn Thành phố).
a) Quản lý tài nguyên: Ngăn chặn và xử lý tình trạng khai thác tài nguyên nước quá mức làm suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Tập trung thực hiện tốt Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai, đoạn chảy qua địa phận Thành phố. Xác định lộ trình phù hợp và kiên quyết thực hiện nhanh chóng tiến tới hạn chế tối đa hoặc chấm dứt tình trạng khai thác, sử dụng nước dưới đất ở những nơi có hệ thống cấp nước sạch. Khẩn trương hoàn thành và triển khai quy hoạch hồ điều tiết tại các khu vực phù hợp.
Tiếp tục triển khai Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2014 của Chính phủ về phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm giai đoạn 2011-2015 trên địa bàn Thành phố; Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 21/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013. Xây dựng và triển khai đề án kiện toàn hệ thống Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất tại 24 quận - huyện; quy chế quản lý khai thác, sử dụng cập nhật dữ liệu đất đai; kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2016 - 2020.
Quản lý, khai thác khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ theo hướng bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ, gắn với xây dựng cảnh quan, phát triển du lịch. Xây dựng mô hình quản lý, bảo vệ và sử dụng rừng bền vững dựa vào cộng đồng. Xác định và triển khai hiệu quả các phương án phòng cháy, chữa cháy các sự cố cháy rừng; bảo vệ động vật hoang dã.
b) Bảo vệ môi trường: Tập trung kiểm soát, ngăn chặn và đẩy lùi ô nhiễm không khí, tiếng ồn, nước mặt, nước ngầm, chất thải rắn thông thường, chất thải rắn nguy hại; khắc phục những khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng; tăng diện tích cây xanh, vườn hoa, thảm cỏ, công viên…, nhất là khu vực trung tâm; xây dựng Thành phố xanh, sạch, có môi trường sống tốt.
Tăng cường công tác thanh kiểm tra, xử phạt nghiêm khắc các hành vi gây ảnh hưởng đến môi trường, trong đó trọng tâm đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát và kiểm soát về môi trường đối với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường, đảm bảo các dự án đầu tư xây dựng đáp ứng các yêu cầu về môi trường.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống quan trắc tự động tại cửa xả nước thải của hệ thống xử lý nước thải tập trung ở các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao và khu nông nghiệp công nghệ cao nhằm giám sát chặt chẽ công tác xử lý nước thải. Phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương tiếp tục giải quyết triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tiếp tục rà soát, lập danh mục, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, không phù quy hoạch.
Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường về xử lý rác, chất thải công nghiệp, chất thải y tế và chất thải nguy hại. Tăng cường đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn, chương trình dự án xử lý nước thải sinh hoạt đô thị tập trung, nước thải y tế, nước thải công nghiệp.Tuyên truyền nhân rộng mô hình phân loại chất thải rắn tại nguồn, giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng. Phấn đấu đến cuối năm 2015, khoảng 25% chất thải rắn được dùng làm phân compost; 7% được tái chế; 5% được xử lý bằng phương pháp đốt và 63% chất thải rắn xử lý được chôn lấp hợp vệ sinh..
c) Ứng phó với biến đổi khí hậu: Triển khai xây dựng Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2016-2020. Đẩy mạnh tuyên truyền ứng phó với biến đổi khí hậu trên các kênh thông tin và truyền thông, lồng ghép vào chương trình giáo dục đào tạo cho học sinh các cấp. Nghiên cứu xây dựng kế hoạch thực hiện giảm phát thải khí nhà kính phù hợp với một số ngành và lĩnh vực. Tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm đàm phán vận động các nước, các nhà tài trợ hỗ trợ Thành phố ưu tiên giải quyết các vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu.
d) Phát triển bền vững: Xây dựng và triển khai hiệu quả kế hoạch hành động của Thành phố để triển khai thực hiện Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, lồng ghép các quan điểm nguyên tắc phát triển bền vững trong quy hoạch kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Giám sát, đánh giá và báo cáo việc thực hiện các tiêu chí, chỉ tiêu, nội dung phát triển bền vững thường xuyên và chặt chẽ.
Tập trung triển khai các dự án thoát nước sử dụng vốn ODA với mục tiêu: nạo vét, cải tạo kênh rạch nội thành, xây dựng bổ sung hệ thống cống cấp 2 - 3, hệ thống thu gom và xử lý nước thải (dự án Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè, dự án cải thiện Môi trường nước lưu vực Tàu Hủ - Bến Nghé - kênh Tẻ, kênh Đôi giai đoạn 1, dự án Nâng cấp Đô thị lưu vực Tân Hóa - Lò Gốm).
Tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành 10 dự án chuyển tiếp; kịp thời đưa công trình vào khai thác sử dụng, đảm bảo khả năng thoát nước, chống ngập úng cho lưu vực. Tăng tần suất nạo vét hệ thống thoát nước để tăng lưu lượng thoát nước phục vụ công tác chống ngập; tăng cường công tác đấu nối, ứng cứu, xử lý ngập cấp bách; tăng khối lượng công trình có tính chất dự án đầu tư để sửa chữa thay thế thiết bị tại các nhà máy xử lý nước thải. Triển khai công tác quản lý, duy tu, bảo dưỡng hệ thống thoát nước và các tuyến kênh, rạch, cửa xả có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên những tuyến đã đăng ký xóa, giảm ngập, những tuyến thường xuyên bị ngập mưa và triều.
Tiếp tục triển khai thực hiện Dự án “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, mạng lưới thoát nước trên nền số hóa và xây dựng mô hình quản lý”. Triển khai 02 đề tài về biến đổi khí hậu: “Nghiên cứu các khả năng ứng phó với các biến cố mưa vượt tần suất thiết kế do biến đổi khí hậu đối với các hệ thống thoát nước đô thị”, “Nghiên cứu, đánh giá tác động kinh tế xã hội của biến đổi khí hậu để nâng cao khả năng thích nghi và ứng phó ngập lụt”.
Tiếp tục xây dựng phát triển phần mềm lưu trữ và phân tích số liệu thủy văn; Phối hợp xây dựng bản đồ cảnh báo rủi ro ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh; chuẩn bị cho dự án “Lắp đặt mạng lưới quan trắc và cảnh báo ngập lụt cho Thành phố” để có thể triển khai vào năm 2016; xây dựng chương trình dự báo thủy văn phục vụ công tác điều hành chống ngập nhằm giảm thiểu thiệt hại do ngập lụt.
Hoàn thành dự án giảm thất thoát nước Thành phố Hồ Chí Minh bằng vốn vay Ngân hàng thế giới (WB). Triển khai dự án cấp nước Thành phố Hồ Chí Minh bằng nguồn vốn vay Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Tiếp tục hoàn tất các thủ tục triển khai ký kết hợp đồng vay vốn ngân hàng thương mại để đầu tư các dự án phát triển mạng lưới đường ống cấp 3 thuộc kế hoạch thực hiện đầu tư năm 2015; vận động nhân dân hạn chế sử dụng nước ngầm. Xây dựng kế hoạch thực hiện biện pháp đóng cửa và không cho phép khai thác nguồn nước ngầm trong khu vực nội thành. Ứng dụng công nghệ thông tin qua các dự án đầu tư xây dựng hệ thống vận hành tổng thể mạng lưới cấp nước kết hợp GIS và SCADA; áp dụng công nghệ, nguyên vật liệu mới để cải tiến quy trình sản xuất nước nhằm nâng cao chất lượng nước; thực hiện thí điểm lắp đặt hộp đồng hồ nước nhằm khắc phục tình trạng gian lận nước. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án hợp tác đầu tư giảm nước thất thoát thất thu vùng 3,4,5,6; giảm nước thất thoát thất thu, tỷ lệ thất thoát nước còn 32%.
e) Phát triển vùng theo quy hoạch: Tổ chức thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng Đông Nam Bộ đến năm 2020 (theo Quyết định số 943/QĐ-TTg); Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (theo Quyết định số 252/QĐ-TTg); Quy hoạch xây dựng Vùng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 (theo Quyết định số 24/QĐ-TTg và 589/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) và Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025 (theo Quyết định số 2631/QĐ-TTg). Chủ động phối hợp với các tỉnh trong Vùng Đông Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam xây dựng cơ chế phối hợp triển khai thực hiện, trong đó tập trung vào 6 nhiệm vụ trọng tâm: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch chung xây dựng gắn với quy hoạch vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế và đào tạo nguồn nhân lực.
Hoàn thành và phê duyệt quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu, các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, tổ chức giám sát, kiểm tra, thanh tra, thực hiện quy hoạch và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy hoạch.
a) Phát triển văn hóa: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) và Chương trình hành động của Thành ủy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa, thể dục thể thao theo tinh thần Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ và Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Tập trung tổ chức tốt các hoạt động văn hóa phục vụ các sự kiện, lễ hội lớn của Thành phố[74] nhằm tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí và hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của người dân, đồng thời góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của Thành phố nói riêng và cả nước nói chung. Huy động các nguồn lực để tổ chức các lễ hội, hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách tổ chức lễ hội.
Tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” và Chỉ thị 27-CT/TW ngày 12 tháng 01 năm 1998 về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Phấn đấu trong năm 2015, tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hóa đạt 85%. Hiện đại hóa các bảo tàng Thành phố, chú trọng các công tác sưu tầm văn hóa vật thể, phi vật thể. Đẩy mạnh công tác quản lý văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố theo Chỉ thị 16/CT-BVHTTDL ngày 03/2/2010; tiếp tục thực hiện kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Thành phố theo Thông tư 04/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2009. Tăng cường giải pháp liên kết vùng di sản, gắn kết với hoạt động du lịch. Tiếp tục đầu tư cho công tác trùng tu, tôn tạo các di tích văn hóa lịch sử; đổi mới và đa dạng công tác trưng bày, thuyết minh để thu hút khách tham quan. Khuyến khích sáng tác và xây dựng các tượng đài lịch sử, lập hồ sơ khoa học và gắn bia lưu niệm các di tích lịch sử. Phấn đấu năm 2015 có thêm 01 di sản văn hóa, di tích lịch sử cấp quốc gia được công nhận.
Tăng cường hoạt động giao lưu văn hóa để quảng bá, giới thiệu hình ảnh đất nước con người Việt Nam và người dân Thành phố với cộng đồng quốc tế, đồng thời đấu tranh và ngăn chặn hữu hiệu sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai có nội dung xấu. Củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Tích cực đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội, nhất là ma túy, mại dâm. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực nghệ thuật, biểu diễn, hoạt động sản xuất, phát hành băng, đĩa ca múa nhạc sân khấu. Nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa - nghệ thuật, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm chất lượng cao, đậm đà bản sắc dân tộc. Phấn đấu năm 2015, tỷ lệ số phường, xã có nhà văn hóa, thư viện đạt 23%.
Đẩy mạnh xã hội hóa và đa dạng hoá nguồn lực đối với lĩnh vực văn hóa. Tập trung đầu tư những công trình văn hóa trọng điểm mang tính biểu trưng và có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân Thành phố. Nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở, triển khai hiệu quả chương trình xây dựng mô hình “Nông thôn mới”, Chương trình Mục tiêu quốc gia về văn hóa. Đầu tư phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống, củng cố hoạt động các đoàn nghệ thuật chính quy trở thành đội ngũ nòng cốt góp phần định hướng về nâng cao thẩm mỹ thưởng thức nghệ thuật trong công chúng; triển khai xây dựng và thực hiện Đề án Quy hoạch hoạt động Karaoke, Vũ trường đến năm 2025 trên địa bàn Thành phố.
Tăng cường quản lý, định hướng hoạt động báo chí, xuất bản, đảm bảo hoạt động đúng mục đích, tôn chỉ, góp phần tích cực thông tin, tuyên truyền kịp thời, chính xác về các chính sách, chủ trương của Nhà nước, của Đảng bộ, Chính quyền Thành phố, ổn định tư tưởng và dư luận xã hội, động viên mọi người cùng chung sức, chung lòng xây dựng, phát triển Thành phố, xây dựng đất nước
b) Phát triển giáo dục và đào tạo: Triển khai thực hiện Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước và xu thế phát triển của khu vực và thế giới. Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án phổ cập và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh cho học sinh phổ thông và chuyên nghiệp Thành phố. Tiếp tục mở rộng số lượng các trường học tiên tiến, đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Đầu tư và phát triển 03 trường trung học phổ thông[75]; từng cấp học ở từng địa phương quận, huyện phải có ít nhất một đơn vị trường học đạt chuẩn của khu vực.
Xây dựng Đề án xã hội hóa giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2030; Dự án Quy hoạch phát triển ngành giáo dục - đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030; Dự án Quy hoạch phát triển hệ thống các trường Trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2030. Triển khai đầu tư 06 công trình trọng điểm nâng cấp các trường đạt tiêu chuẩn tiên tiến khu vực Đông Nam Á[76] và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2013 về Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn 2025.
Tiếp tục triển khai Quyết định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ về quy định miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục. Tăng cường thực hiện chiến lược phát triển giáo dục theo chương trình nông thôn mới ở các xã thuộc các huyện khó khăn nhất của Thành phố[77]. Duy trì kết quả công tác phổ cập giáo dục ở các bậc học. Phấn đấu tỷ lệ trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo đạt 99%, tỷ lệ học sinh nhập học đúng độ tuổi bậc tiểu học 100%, tỷ lệ học sinh hoàn thành tiểu học 100%; tỷ lệ học sinh nhập học đúng độ tuổi trung học cơ sở 95%, tỷ lệ học sinh theo học bậc trung học phổ thông 93,5%, tỷ lệ nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 được xóa mù chữ 99,5%. Tăng cường triển khai đề án chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non từ 6 đến 18 tháng tuổi. Tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ khuyết tật; trẻ em có hoàn cảnh thiệt thòi, khó khăn.
Đẩy mạnh việc thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục, nhất là đối với giáo dục mầm non[78]. Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường Đại học, Cao đẳng, cơ sở đào tạo nghề phù hợp với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Thành phố giai đoạn 2011 - 2020. Củng cố và tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu dạy và học hiện đại, nhất là các xã nông thôn mới[79], vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Dự kiến trong năm 2015 đưa vào sử dụng 2.608 phòng học mới và khối phụ[80].
Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với ngành, lĩnh vực trọng yếu đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ phát triển bền vững. Chú trọng đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức; tiếp tục triển khai chương trình đào tạo nguồn nhân lực công nghệ sinh học ở nước ngoài và chương trình đào tạo 500 tiến sĩ, thạc sĩ cho cán bộ, công chức trẻ, có triển vọng và năng lực thực tiễn theo các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật. Nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, nhất là các trường ngoài công lập.
Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, chủ động phối hợp với các trường đại học đóng tại Thành phố đào tạo giáo viên tại chỗ đảm bảo đủ số lượng các khoa, các môn ở các cấp học, ngành học. Rà soát quy hoạch lại mạng lưới các trường sư phạm. Chỉ đạo triển khai Thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15 tháng 4 năm 2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo. Xây dựng Đề án phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012-2020.
c) An sinh xã hội và giảm nghèo bền vững: Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp giải quyết việc làm, tạo việc làm mới. Tăng cường hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm thông qua việc phát triển các hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm, ngày hội việc làm. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động xuất khẩu lao động, duy trì các thị trường truyền thống; tìm kiếm, mở rộng sang các thị trường mới, nhất là các thị trường có thu nhập cao và an toàn cho người lao động.
Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác đào tạo nghề, nâng cao số lượng, chất lượng tại các cấp đào tạo nghề. Khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề chủ động đào tạo cung cấp lao động có tay nghề, trình độ cho các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung ...; triển khai thực hiện kế hoạch “Chương trình nâng cao chất lượng đào tạo nghề của Thành phố giai đoạn 2014 - 2015” theo Quyết định số 6954/QĐ-UBND ngày 23 tháng 12 năm 2013 về phê duyệt Kế hoạch thực hiện chương trình nhánh nâng cao chất lượng đào tạo nghề Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015; hợp tác với cơ sở đào nghề nước ngoài sử dụng các chương trình tiên tiến trong giảng dạy. Phấn đấu giáo viên dạy nghề trọng điểm cấp độ quốc gia và cấp độ khu vực đạt 100% vào năm 2015. Tuyển sinh cao đẳng nghề đạt khoảng 20.000 sinh viên, trung cấp nghề đạt khoảng 10.000 sinh viên; tuyển sinh sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên đạt khoảng 250.000 học viên.
Triển khai thực hiện đề án phát triển quan hệ lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2013 - 2020. Tổ chức các buổi tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tăng cường công tác quản lý vấn đề bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Phát triển thêm các chi nhánh đăng ký bảo hiểm thất nghiệp ở các quận - huyện để thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ tìm việc và tư vấn học nghề cho người lao động thôi việc, mất việc làm.
Tăng cường các giải pháp hỗ trợ gia đình người có công phát triển sản xuất, học nghề, tạo việc làm, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là các hộ trong diện nghèo, ở nông thôn, diện di dời, tái định cư. Tiếp tục thực hiện các chương trình, đề án về trợ giúp xã hội, phục hồi chức năng cho người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2012 - 2020; trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2014 - 2020; triển khai thực hiện nghề công tác xã hội, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi giai đoạn 2013 - 2020; chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 - 2020.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ hộ nghèo; đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền công tác giảm nghèo, hạn chế tái nghèo theo chuẩn nghèo của Thành phố; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, kết hợp sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế, nhằm tăng khả năng tiếp cận của người nghèo đối với các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở… Tập trung huy động 3.531 tỷ đồng từ các nguồn vốn tín dụng ưu đãi và tín dụng nhỏ hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo; hỗ trợ vốn 40.000 - 50.000 hộ nghèo, hộ cận nghèo. Phấn đấu đào tạo nghề cho 2.000 - 2.500 lao động nghèo, giải quyết việc làm cho khoảng 15.000 - 20.000 lao động nghèo, hoàn thành mục tiêu đưa 25.000 - 30.000 hộ vượt chuẩn nghèo.
Triển khai có hiệu quả Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện Đề án quản lý người nghiện ma túy trong thời gian chờ thủ tục đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật xử lý vi phạm hành chính trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
d) Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân: Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân theo tinh thần Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và Chỉ thị 06-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương về việc củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. Tăng cường đầu tư hệ thống y tế chuyên sâu, hoạt động nghiên cứu khoa học, tập trung nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật mới trong công tác khám và điều trị đáp ứng kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân.
Quản lý chặt chẽ chất lượng hoạt động khám chữa bệnh, nhất là khu vực tư nhân. Thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chú trọng các bệnh viện tuyến cơ sở; đa dạng hóa các loại hình khám chữa bệnh, phát triển một số lĩnh vực y học chất lượng cao, y học mũi nhọn. Từng bước củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở về tổ chức, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ và cơ chế hoạt động nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám chữa bệnh y học cổ truyền, phát triển đông dược và dược liệu, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong điều trị bệnh.
Tiếp tục thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến Thành phố, tập trung cải tiến khu vực khám bệnh, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, giảm số lượt khám/bác sĩ/ngày; tập trung triển khai các dự án bệnh viện vệ tinh, khoa vệ tinh của các chuyên khoa như Ung bướu, Tim mạch, Nhi, Sản, chấn thương chỉnh hình...; thực hiện có hiệu quả Chương trình Bác sĩ gia đình; xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực tuyến y tế cơ sở, đặc biệt tuyến bệnh viện quận - huyện; tiếp tục triển khai mở rộng việc chuyển giao kỹ thuật từ tuyến trên về tuyến dưới để nâng cao chất lượng điều trị.
Tiếp tục kiện toàn hệ thống y tế dự phòng, đặc biệt là tuyến y tế dự phòng cơ sở; chủ động giám sát dịch tể để phát hiện, phòng, chống sớm, không để các dịch bệnh lớn xảy ra; tổ chức giám sát chặt chẽ 26 dịch bệnh truyền nhiễm theo quy định của Bộ Y tế. Tăng cường công tác tiêm chủng mở rộng để duy trì tỷ lệ tiêm chủng đạt hiệu quả cao. Chủ động phòng chống các bệnh không lây nhiễm, các bệnh do lối sống có hại cho sức khoẻ, phòng chống tai nạn thương tích. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Tăng cường hoạt động quân dân y trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Thực hiện hiệu quả các chương trình sức khỏe của Thành phố, chương trình mục tiêu quốc gia về y tế và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Phấn đấu đến cuối năm 2015, tỷ lệ sinh đạt 13,01‰; tốc độ tăng dân số tự nhiên 1,01%; tỷ lệ cán bộ xã chuyên trách công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đạt 100%. Tăng cường giám sát, hỗ trợ cho công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, phấn đấu tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ đạt 100%, tỷ lệ trạm y tế có nữ hộ sinh (hoặc y sản nhi) và bác sĩ đạt 100%, tỷ lệ phá thai (tổng số người phá thai/100 trẻ sinh ra sống) ở mức 50%, tỷ lệ cơ sở y tế đảm bảo cung cấp thuốc, vật tư, dụng cụ thiết yếu phục vụ đỡ đẻ an toàn 100%, tỷ lệ cơ sở y tế có đủ trang thiết bị kỹ thuật, trang thiết bị phù hợp chăm sóc thai sản và làm mẹ an toàn 100%, tỷ lệ xã có trạm y tế đạt 100%.
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ; trong đó, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu: tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi <10‰, tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi <10‰, tỷ suất tử vong mẹ tính trên 100.000 ca đẻ sống <10 người, tỷ lệ các ca sinh được sự hỗ trợ của cán bộ y tế có tay nghề 100%, tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai của phụ nữ tuổi 15 - 49 đạt 90%, tỷ lệ nhiễm HIV 0,601%, số lượng người lớn được điều trị ARV 25.000 người, số lượng trẻ em được điều trị ARV 1.400 người, số bệnh nhân sốt rét 120 người/năm, không có bệnh nhân chết do sốt rét, tỷ suất phát hiện vi rút lao (AFB) dương tính mới tính trên 100.000 dân là 103 người, tỷ lệ bệnh nhân mắc lao được điều trị khỏi mới 90%.
Phát triển đội ngũ cán bộ y tế đảm bảo số lượng, chất lượng đào tạo theo mục tiêu đề ra; tiếp tục hoàn thành các mục tiêu cụ thể đã được đề ra tại Chương trình nhánh đào tạo nguồn nhân lực cho Ngành Y tế của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015; chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, nhân lực trẻ có chất lượng cao, gắn với ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ sự phát triển của Thành phố; triển khai mô hình Viện - Trường giữa Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch - Bệnh viện Nhân dân 115; phối hợp Trường - Viện giữa Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và các Bệnh viện Thành phố - quận/huyện trong việc đào tạo sinh viên đại học và sau đại học. Phấn đấu tỷ lệ cán bộ, viên chức trạm y tế phường, xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên đạt 85%, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy định 100%, tỷ lệ cán bộ y tế đang hoạt động trong lĩnh vực y tế phải được đào tạo cập nhật liên tục về kiến thức, kỹ năng, thái độ trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ 100%.
Có cơ chế phù hợp quản lý hiệu quả giá thuốc chữa bệnh. Tăng cường thanh tra, kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm, dược, mỹ phẩm, vắc xin sử dụng cho người. Phối hợp với Cục Quản lý Dược Việt Nam phát triển công nghiệp sản xuất thuốc, chú trọng sản xuất thuốc từ dược liệu, sinh phẩm y tế; có kế hoạch bảo tồn nguồn cây thuốc, quy hoạch và phát triển các vùng dược liệu. Đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ công tác dự phòng và điều trị, triển khai các biện pháp hữu hiệu để bình ổn giá thuốc; tăng cường kiểm tra, giám sát để đảm bảo chất lượng thuốc; đẩy mạnh triển khai các giải pháp để sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, từng bước giảm việc lạm dụng thuốc trong điều trị ở các cơ sở y tế công và tư. Tăng cường quản lý nguồn gốc và chất lượng đông dược và dược liệu tại các cơ sở sản xuất và cung ứng; vận động "Người Việt dùng thuốc Việt". Tiếp tục thực hiện việc đấu thầu mua thuốc theo quy định.
Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Kiện toàn bộ máy cán bộ thanh tra; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ sở hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tư nhân. Tăng cường thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ đối với cán bộ y tế có trình độ cao đến công tác tại vùng sâu, vùng xa như huyện Cần Giờ, huyện Nhà Bè, bệnh viện Nhân Ái, khu điều trị Phong Bến Sắn, các đơn vị y tế cơ sở phường - xã, thị trấn.
Tăng cường hội nhập quốc tế, đẩy mạnh xã hội hóa và đa dạng hoá nguồn lực đối với các lĩnh vực này, ưu tiên vốn đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài để trao đổi chuyên môn, kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm làm việc theo tiêu chuẩn quốc tế. Nâng cấp các Bệnh viện đa khoa, chuyên khoa sâu tại khu vực nội thành theo định hướng hình thành một trung tâm y tế kỹ thuật cao; tập trung đầu tư xây dựng các trung tâm y tế chuyên sâu và bệnh viện ở cửa ngõ Thành phố theo quy hoạch. Củng cố và hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải, chất thải y tế bảo đảm vệ sinh môi trường.
d) Phát triển phong trào thể thao quần chúng, nhất là trong thanh thiếu niên, học sinh. Nâng cấp, xây dựng mới và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật ở các trung tâm thể dục thể thao; nâng cao trình độ tổ chức, quản lý nhằm xây dựng Thành phố trở thành trung tâm thể thao thành tích cao, mang tầm khu vực và quốc tế. Phấn đấu năm 2015, tỷ lệ người tập luyện thường xuyên đạt 28%, tỷ lệ trường trung học thực hiện giáo dục thể chất trong nhà trường là 100% và tỷ lệ học sinh được đánh giá và phân loại thể lực theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể là 99,6%.
Tổ chức tốt các sự kiện thể thao trong năm, đặc biệt là Đại hội thể dục thể thao Thành phố, chuẩn bị lực lượng tham dự Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VIII, SEA Games 28 - 2015 (Singapore), Olympic Rio de Janeiro 2016 (Brazil), Asian Beach Games 5 - 2016 (Nha Trang). Phát triển thể thao thành tích cao cùng thể thao chuyên nghiệp nhắm tới mục tiêu là đoạt huy chương châu Á và từng bước tiến tới Olympic. Đầu tư thích đáng với tầm nhìn chiến lược về một số môn cơ bản trọng điểm và có ưu thế của Thành phố[81]. Tiếp tục triển khai chương trình nguồn nhân lực của thể thao Thành phố giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020 cho công tác đào tạo 200 vận động viên thuộc 20 môn thể thao trọng điểm.
đ) Phát triển khoa học - công nghệ: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động khoa học và công nghệ Thành phố. Nâng cao năng lực nghiên cứu dự báo, nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn và khoa học quản lý để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc của Thành phố, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thành phố, các giải pháp phát triển bền vững và hội nhập thành công vào khu vực và thế giới.
Tiếp tục đầu tư các chương trình khoa học và công nghệ phục vụ trực tiếp các chương trình phát triển kinh tế-xã hội trọng điểm của Thành phố, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển các sản phẩm công nghệ cao, chú trọng phát triển các hướng công nghệ ưu tiên. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ phục vụ tái cấu trúc doanh nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Xây dựng và triển khai Chương trình phát triển công nghiệp công nghệ cao góp phần quan trọng vào tái cấu trúc kinh tế Thành phố.
Tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở cấp Thành phố, các sở - ngành và quận-huyện. Thúc đẩy các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong nền kinh tế thị trường và hình thành lực lượng doanh nghiệp khoa học công nghệ làm nhân tố cho sự phát triển khoa học và công nghệ trong tương lai. Chủ động hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ: trao đổi chuyên gia và đào tạo chuyên môn ở nước ngoài; tham gia các chương trình nghiên cứu quốc tế; chú trọng khai thác tài sản trí tuệ của các nước phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao.
e) Tiếp tục xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện với trẻ em; bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Phát triển mạng lưới bảo vệ trẻ em dựa vào cộng đồng và các mô hình bảo vệ; tăng cường công tác truyền thông, vận động xã hội về Luật Bảo vệ chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Chương trình hành động quốc gia về trẻ em. Tăng cường công tác kiểm tra việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi, giám sát lao động trẻ em, tình hình xâm hại, ngược đãi, phân biệt đối xử với trẻ em; giám sát việc thực hiện nuôi dạy trẻ em ở các cơ sở ngoài công lập, nhóm trẻ gia đình. Phấn đấu vào cuối năm 2015 số xã, phường phù hợp với trẻ em đạt 100%.
Đẩy mạnh công tác xây dựng môi trường phát triển toàn diện cho thanh niên. Tổ chức các chương trình tình nguyện tạo sân chơi cho thanh niên góp phần nâng cao kỹ năng sống, trách nhiệm xã hội cho thanh niên. Hỗ trợ sinh viên về nhà trọ, giới thiệu việc làm, góp phần đảm bảo đời sống cho sinh viên theo học tại các trường trên địa bàn Thành phố.
Chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi, xây dựng và phát triển hình mẫu gia đình văn minh, hạnh phúc. Thực hiện tốt chương trình vì sự tiến bộ của phụ nữ. Bình đẳng giới trong lao động việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế ngày càng có những cải thiện đáng kể; bình đẳng giới thực chất về quyền, đối xử, cơ hội giữa nam và nữ được thúc đẩy. Triển khai rà soát các nội dung, nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 4249/QĐ-UBND ngày 07 tháng 9 năm 2011 của Ủy ban nhân dân Thành phố về Ban hành Chương trình thực hiện Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2020; phấn đấu tỷ lệ được tạo việc làm mới hàng năm cho mỗi giới (nam và nữ) đạt 45%, tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo nghề đạt 25%, tỷ lệ hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ có nhu cầu được vay vốn ưu đãi từ các nguồn quỹ tín dụng là 38,5%.
6. Tập trung thực hiện có hiệu quả 6 Chương trình đột phá theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX. Tiếp tục nâng cao trách nhiệm của cơ quan thường trực từng chương trình trong việc kiểm tra, đánh giá, đề ra các giải pháp mới từ thực tiễn để nâng cao chất lượng, hiệu quả, tạo bước chuyển biến tích cực trong việc thực hiện từng chương trình đột phá trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ IX. Trong đó lưu ý: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đảm bảo có đủ người tài phục vụ cho sự nghiệp phát triển của Thành phố trong giai đoạn mới. Thực hiện đạt kết quả cao nhất Chương trình cải cách hành chính tại Thành phố, thực hiện công khai, minh bạch các thủ tục đầu tư, kinh doanh trên địa bàn Thành phố; thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tăng cường thực hiện Đề án tái cơ cấu kinh tế doanh nghiệp Thành phố, đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; chuẩn bị thực hiện đề án phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn Thành phố để tạo đà kinh tế Thành phố phát triển vững mạnh hơn. Tiếp tục thực hiện Chương trình giảm ùn tắc và tai nạn giao thông. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án, đưa công trình vào khai thác sử dụng, đảm bảo khả năng thoát nước, chống ngập úng cho lưu vực; giải quyết triệt để tình trạng ngập nước do mưa; do lũ và triều, có xét đến hiện tượng mực nước biển dâng cao trong tương lai trên địa bàn Thành phố. Tập trung kiểm soát, ngăn chặn và đẩy lùi ô nhiễm không khí, tiếng ồn, nước mặt, nước ngầm, chất thải rắn thông thường, chất thải rắn nguy hại; khắc phục những khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng; tăng diện tích cây xanh, vườn hoa, thảm cỏ, công viên…, nhất là khu vực trung tâm Thành phố; xây dựng Thành phố xanh, sạch; nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng.
Chuẩn bị nội dung báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện 6 chương trình đột phá của Thành phố nhiệm kỳ IX.
Tăng cường việc kiểm tra, giám sát cơ sở trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao; theo dõi chặt chẽ tiến độ thực hiện 6 Chương trình đột phá và các công trình trọng điểm để tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác dân vận của chính quyền. Chỉ đạo nhân rộng các mô hình, điển hình tốt ở các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực cải cách hành chính.
Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố và các Đoàn thể chính trị của Thành phố tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các cơ quan chính quyền các cấp theo chức năng nhiệm vụ được giao.
7. Tiếp tục thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm:
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chiến lược, chính sách, pháp luật, tài liệu về phòng chống tham nhũng nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, thống nhất, có hiệu quả từ nhận thức đến hành động của cán bộ quản lý công nhân viên chức trong việc phòng, chống tham nhũng.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng. Tiếp tục triển khai thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Thanh tra năm 2010, kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 (giai đoạn 2) của Ủy ban nhân dân Thành phố. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định số 68/2011/NĐ-CP ngày 8/8/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2007/NĐ-CP của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập.
Triển khai tốt công tác quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, ngân sách khác (bao gồm cả thu, chi ngân sách, quản lý sử dụng nguồn vốn của các dự án, chương trình mục tiêu và các nguồn vốn, quỹ do nhân dân đóng góp, kinh phí cho các công trình, đề án…); mua sắm tài sản công, định giá, đấu giá, thanh lý tài sản nhà nước; thực hành tiết kiệm chống lãng phí trong chi tiêu hành chính công. Chấn chỉnh các khoản thu không đúng quy định.
Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo đảm ổn định chính trị, xã hội. Xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm để củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra để phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng.
a) Quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Các lực lượng vũ trang tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quy chế, Kế hoạch phối hợp hoạt động theo Nghị định 77 của Chính phủ; bảo vệ an toàn các cao điểm, sự kiện chính trị, Lễ hội diễn ra trên địa bàn Thành phố, đặc biệt là kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước và Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Tiếp tục quán triệt, tập trung xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố ngày càng vững chắc. Xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, gắn với thế trận an ninh nhân dân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo khu vực phòng thủ, Ban Chỉ đạo Phòng không nhân dân, Ban Chỉ đạo Biển Đông - Hải đảo. Rà soát, bổ sung hệ thống văn kiện tác chiến khối lực lượng vũ trang, văn kiện của các Ban Đảng, sở, ngành. Tập trung xây dựng Sở Chỉ huy Thống nhất Thành phố, trận địa phòng thủ và các chốt. Kiểm soát quân sự trên các của ngõ ra vào Thành phố. Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, kết hợp với củng cố quốc phòng, an ninh theo Kế hoạch 821/KH-UBND-M ngày 18 tháng 12 năm 2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố.
Thực hiện tốt công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng. Hoàn chỉnh, triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần trong khu vực phòng thủ”; Đề án “Sử dụng lực lượng dân quận tập trung trong nhiệm vụ phòng, chống gây rối, biểu tình”. Chuẩn bị lực lượng, phương tiện sẵn sàng huy động tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo khi có lệnh. Thực hiện tốt quy trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ; công tác đăng ký, quản lý, tạo nguồn dự bị động viên. Thực hiện tốt chế độ phát triển luân phiên dân quân tự vệ theo Luật. Đẩy mạnh tiến độ xây dựng trụ sở Ban Chỉ huy Quân sự phường - xã, thị trấn.
Thực hiện xây dựng kế hoạch đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Triển khai thực hiện Chỉ thị số 15/TTg ngày 17 tháng 6 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đảm bảo an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới. Triển khai thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư XII của Đảng. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động nắm tình hình kịp thời phát hiện xử lý giải quyết các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Thực hiện 03 chương trình phòng, chống tội phạm, ma túy, mua bán người giai đoạn 2012 - 2015; triển khai thực hiện các kế hoạch của Bộ Công an về mở cao điểm tấn công trấn áp tội phạm hình sự, đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn Thành phố.
Ban hành Chỉ thị về triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy. Tổ chức tập huấn và huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ theo Quyết định số 44/2012/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ đối với các sở - ngành, Ủy ban nhân dân quận - huyện; thực tập phương án chữa cháy và cứu nạn cứu hộ theo Thông tư 11/2014/TT-BCA ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Công an quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2003 và Nghị định số 46/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2012 quy định về Luật phòng cháy chữa cháy.
Tổ chức Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 1634/CT-TTg ngày 23 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường biện pháp phòng cháy chữa cháy; Hội nghị triển khai công tác thẩm duyệt thiết kế về phòng cháy chữa cháy theo Thông tư số 11/2014/TT-BCA ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Công an; triển khai thực hiện Đề án nâng cao năng lực phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ngang tầm với các nước trong khu vực.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Trung ương, Chính phủ và Thành ủy về công tác tiếp công dân (Chỉ thị số 35/-CT-TW ngày 26 tháng 5 năm 2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chỉ thị 21-CT/TU ngày 28 tháng 5 năm 2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về tăng cường lãnh đạo công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Luật Tiếp công dân, Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều của Luật Tiếp công dân).
b) Công tác đối ngoại
Tiếp tục đón tiếp chu đáo và trọng thị các đoàn vào, qua đó góp phần thắt chặt quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các nước trên thế giới. Triển khai Kế hoạch hành động của Thành phố thực hiện Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, đặc biệt nhằm thu hút nguồn lực phục vụ 6 chương trình trọng điểm phát triển Thành phố giai đoạn 2011 - 2015, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng và đào tạo nguồn nhân lực của Thành phố. Triển khai nội dung và kế hoạch thực hiện cộng đồng ASEAN năm 2015 và các Hiệp định thương mại với các khu vực, quốc gia để chủ động hội nhập.
Tiếp tục chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và cơ quan đại diện nước ngoài tại Thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung để tìm kiếm các đối tác tin cậy, các nguồn vốn đầu tư, giới thiệu các thế mạnh và những dự án ưu tiên của Thành phố ra bên ngoài.
Triển khai hiệu quả các Thoả thuận quốc tế đã được ký kết với 34 địa phương nước ngoài nhằm đưa các quan hệ hợp tác đã thiết lập này đi vào chiều sâu, thực chất; tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế theo phương châm đa dạng hóa đối tác, đa dạng hóa lĩnh vực và chú trọng hiệu quả hợp tác.
Đẩy mạnh xây dựng và triển khai đề án tổng thể về công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại, chủ động đổi mới phương thức, tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, hỗ trợ chất lượng tuyên truyền. Triển khai các hoạt động ngoại giao văn hóa hiệu quả và thiết thực, góp phần xúc tiến thương mại, đầu tư, quảng bá du lịch, văn hóa của Việt Nam đến bạn bè quốc tế.
Phát huy vai trò của đối ngoại nhân dân thông qua việc đổi mới và đa dạng hóa hình thức quan hệ với các đối tác, tăng cường giao lưu đối thoại nhằm tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Tiếp tục tăng cường quan hệ với các hiệp hội, tổ chức nhân dân các nước; củng cố, mở rộng quan hệ với các đối tác hiện có, chú trọng lĩnh vực hợp tác phát triển kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật, giáo dục; đồng thời xây dựng quan hệ với các đối tác mới; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác phi chính phủ nước ngoài.
Đẩy mạnh công tác người Việt Nam ở nước ngoài, đa dạng hóa các hoạt động nhằm thu hút và phát huy nguồn lực, tri thức của kiều bào phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường nghiên cứu, phân tích và đề xuất chính sách liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.
9. Các cấp, các ngành phát động mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước. Tổ chức thông tin tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các thông tin về kết quả triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX, tập trung tuyên truyền về thành quả triển khai 6 Chương trình đột phá; công tác chuẩn bị, kế hoạch và chương trình hành động, nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ X; các ngày lễ lớn như: 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 104 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước và 39 năm năm Thành phố được vinh dự mang tên Bác Hồ kính yêu; 70 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9; chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin về tình hình kinh tế - xã hội, môi trường đầu tư và các thông tin liên quan đến tình hình trong nước và quốc tế; tuyên truyền về vấn đề Biển Đông, bảo vệ chủ quyền biển, đảo,... để nhân dân hiểu rõ về tình hình và chính sách của Đảng, Nhà nước; từ đó tạo sự đồng thuận trong nhân dân, chung sức chung lòng thực hiện tốt các mục tiêu trên cơ sở kế hoạch đã đề ra. Tập trung chỉ đạo, chuẩn bị chu đáo nội dung báo cáo kinh tế - xã hội phục vụ Đại hội Đảng các cấp./.
|
CHỦ TỊCH |
THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU NĂM 2014 THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 38/2013/NQ-HĐND NGÀY 12 THÁNG 12 NĂM 2013 CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỀ NHIỆM VỤ KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI NĂM 2014
STT |
Chỉ tiêu |
Đơn vị tính |
Chỉ tiêu kế hoạch 2014 |
Thực hiện cả năm |
So kế hoạch |
|
Các chỉ tiêu kinh tế : 5 chỉ tiêu |
||||||
1 |
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên địa bàn |
% |
9,5% - 10% |
9,6% |
Đạt |
|
|
GDP cả nước |
% |
|
5,98% |
|
|
2 |
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội |
|
Chiếm 31%GDP |
28,5% |
Đạt |
|
3 |
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu |
% |
10% |
8,8% |
Chưa đạt |
|
4 |
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 |
% |
< cả nước |
1,65% |
Đạt |
|
5 |
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn (không tính ghi thu ghi chi) |
Tỷ đồng |
226.300 |
249.866 |
Vượt |
|
Các chỉ tiêu xã hội: 12 chỉ tiêu |
||||||
1 |
Số lao động được giải quyết việc làm |
Lượt người |
265.000 |
284.000 |
Vượt |
|
2 |
Số lao động được tạo việc làm mới |
Người |
120.000 |
120.000 |
Đạt |
|
3 |
Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo nghề |
% |
68 |
69,93 |
Vượt |
|
4 |
Tỷ lệ thất nghiệp giảm còn |
% |
4,7 |
4,65 - 4,7 |
Đạt |
|
5 |
Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí thành phố (thu nhập dưới 16 triệu đồng/người/năm) giảm còn |
% |
6,8 |
1,35 |
Vượt |
|
6 |
Tỷ lệ sinh |
‰ |
14,02 |
13,02 |
Vượt |
|
7 |
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng |
% |
<8 |
<5 |
Vượt |
|
8 |
Số giường bệnh trên 10.000 dân |
giường |
42 |
43 |
Vượt |
|
9 |
Số bác sĩ trên 10.000 dân |
bác sĩ |
14,5 |
14,5 |
Đạt |
|
10 |
Diện tích nhà ở bình quân đầu người |
m2 |
16,9 |
16,9 |
Đạt |
|
11 |
Phấn đấu số vụ ùn tắc giao thông trên 30 phút ở địa bàn thành phố. |
|
Hạn chế mức thấp nhất |
Hạn chế mức thấp nhất |
Đạt |
|
12 |
Số vụ tai nạn giao thông, số người chết, số người bị thương do tai nạn giao thông giảm khoảng |
% |
5-10 |
Giảm 18,8% số vụ; 11,6% số người chết; 14,3% số người bị thương |
Vượt |
|
Các chỉ tiêu môi trường: 12 chỉ tiêu |
||||||
1 |
Số lượt người sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng |
Triệu lượt người |
650 |
593 |
Chưa đạt |
|
2 |
Tỷ lệ hộ dân đô thị được cấp nước sạch |
% |
100 |
96,17 |
Chưa đạt |
|
3 |
Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh |
% |
100 |
97[82] |
Chưa đạt |
|
4 |
Tỷ lệ diện tích che phủ rừng và cây xanh phân tán quy đổi trên tổng diện tích đất tự nhiên đến cuối năm 2014 |
% |
39,8 |
39,8 |
Đạt |
|
5 |
Tỷ lệ chất thải rắn thông thường ở đô thị được thu gom, xử lý |
% |
100 |
100 |
Đạt |
|
6 |
Tỷ lệ chất thải rắn nguy hại được thu gom, xử lý |
% |
100 |
100 |
Đạt |
|
7 |
Tỷ lệ chất thải rắn y tế được thu gom, xử lý |
% |
100 |
100 |
Đạt |
|
8 |
Tỷ lệ khu chế xuất, khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường |
% |
100 |
100 |
Đạt |
|
9 |
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý |
% |
100 |
95[83] |
Chưa đạt |
|
10 |
Tỷ lệ xử lý nước thải y tế |
% |
100 |
99,7[84] |
Chưa đạt |
|
11 |
Số điểm ngập do mưa giảm trên tổng số điểm ngập hiện nay |
điểm |
Xoá, giảm 06 điểm |
Xóa 02/06 Giảm 02/06 |
Chưa đạt |
|
12 |
Số điểm ngập nước do triều |
điểm |
Xoá 01/03 điểm ngập nặng còn lại |
01 |
Đạt |
|
|
|
|
|
|
|
|
Năm 2014, Thành phố hoàn thành 22/29 chỉ tiêu kinh tế - xã hội; các chỉ tiêu chưa đạt: tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu; số lượng người sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng; tỷ lệ hộ dân đô thị được cấp nước sạch; tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh ở nông thôn; tỷ lệ xử lý nước thải y tế; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý; số điểm ngập do mưa./.
CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VỀ KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI, THU CHI NGÂN SÁCH NĂM 2015
STT |
Chỉ tiêu |
Đơn vị tính |
Chỉ tiêu kế hoạch 2015 |
Các chỉ tiêu kinh tế : 5 chỉ tiêu |
|||
1 |
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên địa bàn |
% |
9,5% trở lên |
|
GDP cả nước |
% |
6,2% |
2 |
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội |
|
Chiếm 30% GDP |
3 |
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2015 |
% |
< cả nước |
4 |
Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu |
% |
8% - 10% |
5 |
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn (không tính ghi thu ghi chi) |
tỷ đồng |
265.776 |
Các chỉ tiêu xã hội: 8 chỉ tiêu |
|||
1 |
Số lao động được tạo việc làm mới |
người |
120.000 |
2 |
Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo nghề |
% |
72% |
3 |
Tỷ lệ thất nghiệp giảm còn |
% |
4,6% |
4 |
Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí thành phố (thu nhập dưới 16 triệu đồng/ người/ năm) giảm còn |
% |
<1% |
5 |
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng |
% |
<8% |
6 |
Số giường bệnh trên 10.000 dân |
giường |
42[85] |
7 |
Số bác sĩ trên 10.000 dân |
bác sĩ |
15 |
8 |
Diện tích nhà ở bình quân đầu người |
m2/ người |
17 |
Các chỉ tiêu môi trường: 12 chỉ tiêu |
|||
1 |
Phấn đấu các hộ dân thành phố được sử dụng nước sạch hoặc nước hợp vệ sinh |
% |
100% |
2 |
Tỷ lệ diện tích che phủ rừng và cây xanh phân tán quy đổi trên tổng diện tích đất tự nhiên đến cuối năm 2015 |
% |
40% |
3 |
Tỷ lệ chất thải rắn thông thường ở đô thị được thu gom, xử lý |
% |
100% |
4 |
Tỷ lệ chất thải rắn nguy hại được thu gom, xử lý |
% |
100% |
5 |
Tỷ lệ chất thải rắn y tế được thu gom, xử lý |
% |
100% |
6 |
Tỷ lệ Khu chế xuất, Khu công nghiệp đang hoạt động đảm bảo có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường |
% |
100% |
7 |
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý |
% |
95%[86] |
8 |
Tỷ lệ xử lý nước thải y tế |
% |
100% |
9 |
Phấn đấu xóa điểm ngập do mưa |
|
- 49/58 điểm ngập do mưa (kể cả 33 điểm tái ngập) - 21/29 điểm ngập phát sinh mới do mưa |
10 |
Số lượt người sử dụng phương tiện vận tải hành khách công cộng |
triệu lượt người |
tối thiểu 600 |
11 |
Kìm hãm và giảm dần số vụ ùn tắc giao thông trên 30 phút |
|
|
12 |
Giảm số vụ, số người chết và số người bị thương do tai nạn giao thông so với năm 2014 |
|
từ 5% trở lên |
[1] Điểm bán của từng Chương trình tính đến ngày 01/11/2014: Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu: 3.581 điểm bán (tăng 3.333 điểm bán so năm 2008 và tăng 96 điểm bán so thời điểm tháng 4/2014), trong đó có 829 điểm bán tại khu vực ngoại thành (tăng 14 điểm bán so thời điểm tháng 4/2014). Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng phục vụ mùa khai trường: 784 điểm bán (tăng 15 điểm bán so thời điểm tháng 4/2014). Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng sữa: 1.405 điểm bán (tăng 212 điểm bán so thời điểm tháng 4/2014). Chương trình Bình ổn thị trường các mặt hàng dược phẩm thiết yếu: 3.169 điểm bán (tăng 413 điểm bán so thời điểm tháng 4/2014). Chương trình còn là kênh quan trọng để thực hiện Chương trình “Thuốc Việt cho người Việt” với mạng lưới điểm bán, trong đó có 100% nhà thuốc bệnh viện, phủ khắp các quận - huyện.
[2] Đến nay đã hỗ trợ cho 109 dự án với tổng mức đầu tư 8.917,465 tỷ đồng, số vốn vay được ngân sách hỗ trợ 4.361,103tỷ đồng; năm 2014 đã hỗ trợ 32 dự án tham gia Chương trình kích cầu với tổng mức đầu tư 2.783,013 tỷ đồng, trong đó số vốn ngân sách hỗ trợ lãi suất 1.355,658tỷ đồng.
[3] Đến nay, trên địa bàn Thành phố có 37 trung tâm thương mại, 175 siêu thị, 723 cửa hàng tiện lợi và 240 chợ truyền thống (trong đó đã bao gồm 3 chợ đầu mối nông sản thực phẩm).
[4] Bao gồm: Phát triển nông nghiệp và nông thôn, sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
[5] Tính đến ngày 23/10/2014.
[6] Năm 2013 là 4,8 tỷ đô-la Mỹ.
[7] 9 dự án cấp giấy chứng nhận đầu tư: (1) Trung tâm phát triển công nghệ cao đại học Nguyễn Tất Thành: 52,4 triệu đô-la Mỹ; (2) Trung tâm đào tạo nghề chất lượng cao Đại học Hutech: 21,4 triệu đô-la Mỹ; (3) Trung tâm nghiên cứu và phát triển thẻ thông minh MK Smart: 2 triệu đô-la Mỹ; (4) Nhà máy chế tạo và sản xuất chíp bán dẫn cnc: 257,5 triệu đô-la Mỹ; (5) Khu phức hợp Onehub Sài Gòn: 130 triệu đô-la Mỹ; (6) Công ty điện tử Samsung: 1.400 triệu đô-la Mỹ; (7) Kho ngoại quan và dịch vụ hậu cần Khu Công nghệ cao: 14 triệu đô-la Mỹ; (8) Kho ngoại quan và trung tâm phân phối: 0,7 triệu đô-la Mỹ; (9) Nghiên cứu chế tạo tai nghe điện não đồ: 12 triệu đô-la Mỹ.
[8] Tổng diện tích hoa, cây kiểng là 2.130 ha, tăng 4,9% so cùng kỳ; trong đó lan 250 ha, tăng 13,6%; kiểng, bonsai: 530 ha, tăng 6% so cùng kỳ; hoa nền: 850 ha, tăng 4,9% so cùng kỳ. Tổng đàn bò 129.600 con, tăng 15,7%; trong đó đàn bò sữa 103.200 con, tăng 16,5%; cung ứng 24.000 con bò sữa giống hàng hóa cung cấp cho các tỉnh; tổng đàn bò sữa nuôi công nghệ cao Israel là 155 con, trong đó cái vắt sữa là 70 con, năng suất sữa bình quân là 22,7kg/con/ngày, 9000 lít/năm, gấp 1,8 lần; cá cảnh ước khoảng 90 triệu con, tăng 12,5%... Đến cuối năm 2014, cơ cấu từng ngành như sau: trồng trọt chiếm tỷ trọng 25,3% (cùng kỳ 27,2%); chăn nuôi 38,9% (cùng kỳ 38,1%); thủy sản 28,1% (cùng kỳ 27%); dịch vụ nông nghiệp: 6,7% (cùng kỳ 6,7%).
[9] Thí điểm chuyển giao khẩu phần ăn TMR (Total Mixed Ration) theo công nghệ Israel cho các hộ chăn nuôi có quy mô lớn, tổ chức các lớp tập huấn, tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp.
[10] Trong đó, trồng trọt ước tăng 4,5% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 5,4%); chăn nuôi tăng 4,3% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 4%); lâm nghiệp tăng 13,2% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 5,6%); thủy sản tăng 9,8% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 9,6%). Diện tích gieo trồng lúa ước đạt 20.808 ha, giảm 2,3% so cùng kỳ (cùng kỳ giảm 4,8%). Tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt 55.169 tấn, tăng 5,8% so cùng kỳ.
[11] Xã Tân Thông Hội và xã Thái Mỹ (huyện Củ Chi), xã Lý Nhơn (huyện Cần Giờ), xã Xuân Thới Thượng (huyện Hóc Môn); xã Tân Nhựt (huyện Bình Chánh); xã Nhơn Đức (huyện Nhà Bè).
[12] Cụ thể:
- Huyện Củ Chi: Tổng số: 466 căn xây dựng mới với tổng kinh phí dự kiến 17,840 tỷ đồng (đã hoàn thành đã đưa vào sử dụng 269 căn với kinh phí thực hiện 10,760 tỷ đồng; còn lại 197 căn).
- Huyện Hóc Môn: Tổng số: 161 căn (80 căn xây dựng mới, 81 căn sửa chữa) với tổng kinh phí dự kiến 4,995 tỷ đồng. Đã hoàn thành đã đưa vào sử dụng: 151 căn (79 căn xây dựng mới, 72 căn sửa chữa) với tổng kinh phí 4,600 tỷ đồng; còn lại 10 căn (01 căn xây dựng mới, 09 căn sửa chữa).
- Huyện Bình Chánh: Tổng số: 696 căn (493 căn xây dựng mới, 203 căn sửa chữa) với tổng kinh phí dự kiến 23,742 tỷ đồng. Đã hoàn thành đã đưa vào sử dụng: 478 căn (319 căn xây dựng mới, 159 căn sửa chữa) với tổng kinh phí 12,722 tỷ đồng; còn lại 118 căn (74 căn xây dựng mới, 44 căn sửa chữa).
- Huyện Nhà Bè: Tổng số: 288 căn (114 căn xây dựng mới, 174 căn sửa chữa) với tổng kinh phí dự kiến 10,480 tỷ đồng. Đã hoàn thành đã đưa vào sử dụng: 78 căn (68 căn xây dựng mới, 10 căn sửa chữa) với tổng kinh phí 4,270 tỷ đồng; còn lại 210 căn (46 căn xây dựng mới, 164 căn sửa chữa).
- Huyện Cần Giờ: Tổng số: 757 căn (525 căn xây dựng mới, 232 căn sửa chữa) với tổng kinh phí dự kiến 28,808 tỷ đồng. Đã hoàn thành đã đưa vào sử dụng: 470 căn (329 căn xây dựng mới, 141 căn sửa chữa) với tổng kinh phí 21,270 tỷ đồng; còn lại 287 căn (196 căn xây dựng mới, 91 căn sửa chữa).
[13] So cùng kỳ, giảm 4,63% về số doanh nghiệp được cấp mới và tăng 12,1% về vốn đăng ký; tăng 10,8% về số doanh nghiệp thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh và tăng 18,7% về vốn bổ sung.
[14] Tổng số doanh nghiệp đăng ký trên hệ thống (đã trừ giải thể) là 232.964 doanh nghiệp. Trong đó, lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy có số lượng doanh nghiệp đăng ký nhiều nhất, chiếm 39,7%; lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, chiếm 12,5% và lĩnh vực xây dựng chiếm 11%.
[15] So cùng kỳ, giảm 4,7% về số dự án được cấp mới và tăng 187,5% về vốn đầu tư; tăng 3% về số dự án điều chỉnh tăng vốn và giảm 45,4% về vốn điều chỉnh.
[16] Quỹ phát triển nhà ở Thành phố và Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[17] Thành phố còn tham dự Hội chợ triển lãm hàng Công nghiệp Nông thôn tiêu biểu tại tỉnh Long An, Hội chợ triển lãm Nông nghiệp Công nghệ cao và Công nghiệp thực phẩm 2014, Hội chợ Thương mại Du lịch Đồng bằng sông Cửu Long (MDEC) - Sóc Trăng 2014, Hội chợ Nông ngư cơ Đồng bằng sông Cửu Long tại tỉnh An Giang, Hội chợ Công nghiệp - Thương mại Bà Rịa - Vũng Tàu lần 2 năm 2014, Buổi kết nối giao thương giữa Doanh nghiệp Nông nghiệp tỉnh Tiền Giang và Chợ đầu mối Bình Điền.
[18] Cổng thông tin điện tử thương mại và đầu tư hiện có 5.151 thành viên đăng ký sử dụng thường xuyên, đạt số lượt truy cập trên 2,3 triệu lượt đến từ 197 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
[19] Kế hoạch số 1309/KH-UBND ngày 28 tháng 3 năm 2014.
[20] Quyết định số 2307/QĐ-UBND ngày 15 tháng 5 năm 2014.
[21] Ủy ban nhân dân Thành phố phê duyệt tại Quyết định 1340/QĐ-UBND ngày 20 tháng 3 năm 2014.
[22] Số liệu tính đến ngày 10/10/2014
[23] Quận 2, 6, 8, 9, 11, Gò Vấp, Tân Bình, Bình Thạnh, Bình Chánh.
[24] Quận 2, 9, Bình Tân, Nhà Bè, Bình Chánh
[25] Chung cư 727 đường Trần Hưng Đạo, quận 5 (23 hộ); Chung cư số 148 đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3 (32 hộ); Chung cư Ngô Gia Tự lô G (264 hộ), lô A (72 hộ) quận 10; Chung cư số 251 đường Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình (19hộ); Chung cư lô IV-VI cư xá Thanh Đa, quận Bình Thạnh (286 hộ)
[26] Chung cư Lý Thường Kiệt phường 7, Quận 11 (437 hộ); Chung cư lô IV-VI cư xá Thanh Đa, quận Bình Thạnh (286 hộ)
[27] Chung cư 23 Lý Tự Trọng, chung cư Cô Giang, Quận 1; Chung cư 128 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3; Chung cư Vĩnh Hội (lô A, B, C), Quận 4; Chung cư Soái Kình Lâm, chung cư 727 Trần Hưng Đạo, chung cư Đỗ Văn Sửu, chung cư Tản Đà-Hàm Tử, Quận 5; Chung cư và chợ Phạm Thế Hiển, chung cư 765 Bến Bình Đông, chung cư An Sinh, Quận 8; Lô IV - VI chung cư Thanh Đa, quận Bình Thạnh; Lô B, D, J chung cư Lý Thường Kiệt, Quận 11; Chung cư 43 Bình Tây và 119B Tân Hòa Đông, Quận 6; lô T chung cư Ngô Gia Tự, Quận 10.
[28] Dự án nhà lưu trú công nhân Khu Công nghệ cao, Quận 9; Dự án nhà lưu trú công nhân Cụm Công nghiệp Thủ Thiêm; Dự án nhà lưu trú công nhân Khu Công nghiệp Cát Lái, Quận 2; Dự án nhà lưu trú công nhân Khu Chế xuất Linh Trung II, quận Thủ Đức; Dự án nhà lưu trú công nhân Khu Công nghiệp Vĩnh Lộc, Dự án nhà lưu trú công nhân Khu Công nghiệp Tân Tạo, quận Bình Tân.
[29] Dự án ký túc xá Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh với quy mô 14.300 m2 sàn, đáp ứng 1.700 chỗ; Dự án ký túc xá Trường Đại học Giao thông vận tải - cơ sở II với quy mô 7.270 m2, đáp ứng 1.024 chỗ; 15 khối nhà của ký túc xá Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh quy mô 312.000 m2, đáp ứng 36.300 chỗ.
[30] Khởi công Dự án nhà ở xã hội phường Thảo Điền, Quận 2 do Công ty Cổ phần Thủ Thiêm làm chủ đầu tư quy mô 304 căn, khởi công ngày 29/3/2014 và hoàn thành 01 dự án nhà ở lực lượng vũ trang tại quận Gò Vấp do Công ty Cổ phần Tập đoàn Hà Đô làm chủ đầu tư, quy mô 432 căn hộ, 46.506m2 sàn xây dựng.
[31] Dự án Chung cư Lô A - Khu dân cư lô số 4 - Khu chức năng 6B do Công ty Cổ phần Quốc Cường Gia Lai làm chủ đầu tư; dự án Khu chung cư kết hợp thương mại Hòa Nguyễn do Công ty TNHH Đầu tư Bất động sản Tân Bình làm chủ đầu tư; dự án Chung cư cao tầng do Công ty TNHH Phúc Lộc Thọ làm chủ đầu tư.
[32] Dự án nhà ở xã hội Thới Bình, Quận 11 do Công ty Cổ phần Địa ốc 11 làm chủ đầu tư; Dự án nhà ở xã hội phường An Phú Đông, Quận 12 do Công ty Cổ phần Địa ốc Sài Gòn làm chủ đầu tư; Dự án nhà ở xã hội tại phường Trường Thọ, quận Thủ Đức do Công ty Cổ phần Chương Dương làm chủ đầu tư.
[33] Dự kiến đến cuối năm 2014, cấp 6.545 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức; 39.294 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn Thành phố.
[34] Đã thực hiện trên 1.800 suất diễn với hơn 1,23 triệu lượt người xem (Trung tâm Tổ chức Biểu diễn và Điện ảnh: 612 suất, 410.898 lượt người xem; Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội: 180 suất, 94.200 lượt người xem; Nhà hát Nghệ thuật Phương Nam: 608 suất, 268.900 lượt người xem; Trung tâm Ca nhạc nhẹ: 94 suất, 217.706 lượt người xem; Nhà hát Kịch Thành phố: 81 suất, 36.000 lượt người xem, Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang: 132 suất, 128.000 lượt người xem; Nhà hát Ca múa nhạc dân tộc Bông Sen: 85 suất, 71.000 lượt người xem…) và 547 suất biểu diễn phục vụ vùng sâu, vùng xa, ngoại thành, trường trại, thu hút hơn 263.100 lượt người xem (trong đó, có 26 suất phục vụ trường trại, 2.600 lượt người xem và 521 suất phục vụ ngoại thành, vùng xa, 260.500 lượt người xem).
[35] Đã tổ chức thành công Lễ hội Đường sách lần IV xuân Giáp Ngọ 2014, triển lãm giới thiệu tài liệu về biển đảo Việt Nam với hơn 395 nhan đề/2.000 cuốn; tham dự Liên hoan cán bộ Thư viện tuyên truyền giới thiệu sách chủ đề “Âm vang Điện Biên” tại Thành phố Điện Biên, kết quả đạt giải Nhất và giải Giới thiệu đội hình xuất sắc nhất (triển lãm và tuyên truyền tài liệu biển đảo; triển lãm, giới thiệu tài liệu phục vụ người khiếm thị; xe Thư viện số lưu động dành cho người khiếm thị…). Cả năm, Thành phố tổ chức 21 đợt triển lãm với 1.500 sách, báo - tạp chí, bản đồ, phục vụ 19.500 lượt tài liệu, thu hút 16.000 lượt bạn đọc; phục vụ lưu động 49 chuyến với 236.402 lượt tài liệu thu hút 67.941 lượt bạn đọc. Lượng bạn đọc cả năm đạt 1,7 triệu lượt, tăng 16% so cùng kỳ năm trước (1,44 triệu lượt), đạt 167% kế hoạch năm và phục vụ 4,3 triệu lượt tài liệu đạt 115% kế hoạch, đạt 94% so cùng kỳ. Tổng số khách tham quan 07 bảo tàng đạt 2,85 triệu lượt (tăng 2,3% so cùng kỳ); trong đó, khách nước ngoài đạt 760.000 lượt (tăng 1,5% so cùng kỳ).
[36] “Vòng chung kết giải Thể thao Sinh viên Việt Nam”, “Cuộc đua xích lô từ thiện năm 2014 Saigon Cyclo Challenge 2014”, “Chương trình chạy bộ năm 2014 RMIT Vietnam Fun Run 2014”, “Giải bán Marathon Cuộc đua mùa xuân năm 2014”, “Festival bóng rổ trường học năm 2014”, “Bóng đá giao hữu gây quỹ từ thiện, cuộc diễu hành Đạp xe vì môi trường”. Tại giải thể thao người khuyết tật Thành phố từ ngày 04 - 20/4/2014 đã thu hút trên 200 VĐV thuộc 18 đơn vị tham dự 04 môn (bóng đá thiểu năng, bóng đá khiếm thị, judo khiếm thị, bóng rổ thiểu năng). Tại Hội thi thể thao người khuyết tật toàn quốc 2014, Đoàn Thể thao người khuyết tật Thành phố tiếp tục giữ vững vị trí nhất toàn đoàn với 269 HCV, 274 HCB, 168 HCĐ.
[37] Thi đấu trong nước: 566 HLV, 3.340 VĐV, 16 chuyên gia, 73 trọng tài tham dự giải toàn quốc đạt 599 HCV, 468 HCB, 525 HCĐ (so với năm 2013 cử 674 lượt HLV, 3.642 lượt VĐV, 18 chuyên gia, 88 trọng tài thuộc 43 môn thể thao tham dự giải toàn quốc đạt 667 HCV, 545 HCB, 497 HCĐ). Thi đấu quốc tế: 116 HLV, 533 VĐV, 11 chuyên gia, 11 trọng tài thuộc 28 môn thể thao đạt 85 HCV, 72 HCB, 67 HCĐ (năm 2013 cử 144 lượt HLV, 614 lượt VĐV, 09 lượt chuyên gia, 09 lượt trọng tài thuộc 38 môn thể thao đạt 96 HCV, 91 HCB và 74 HCĐ).
[38] Từ đầu năm đến nay, Thành phố đã cử 403 HLV, 2.058 VĐV, 7 chuyên gia thuộc các môn thể thao thế mạnh đi tập huấn trong nước và quốc tế. Đại hội Thể dục Thể thao Thành phố lần VII năm 2014 đã tổ chức thành công, thúc đẩy phong trào thể thao cơ sở với: 99% phường, xã, thị trấn và 100 % quận, huyện tổ chức đại hội, thu hút số lượng VĐV tham gia đông nhất từ trước đến nay với 136.993 VĐV. Riêng cấp Thành phố thu hút 4.287 VĐV tham gia tranh tài ở 29 môn thể thao chính thức, 05 môn hưởng ứng đại hội.
[39] Tỷ lệ tốt nghiệp hệ giáo dục thường xuyên 86,63%; tăng 1%. Tính chung hai hệ là 97,95%.
[40] Năm học 2013 - 2014, Thành phố đã đưa vào sử dụng 1.900 phòng học, trong đó xây thay thế 724 phòng; số phòng học tăng thêm: 1.176 phòng (Mầm non - 239; Tiểu học - 682; Trung học cơ sở - 115; Trung học phổ thông - 85; Giáo dục thường xuyên - 25; Giáo dục Chuyên biệt - 30) với tổng kinh phí đầu tư 3.930,664 tỉ đồng. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu gửi trẻ của công nhân tại các khu chế xuất, khu công nghiệp, Thành phố triển khai thực hiện 22 dự án đầu tư xây dựng trường mầm non với tổng quỹ đất gần 46.500m2, đáp ứng 5.500 chỗ gửi trẻ cho công nhân. Đến nay, đã có 06 dự án đưa vào hoạt động với 1.440 trẻ; có 03 dự án đang triển khai các thủ tục chuẩn bị khởi công với quy mô 1.185 trẻ.
[41] Theo Nghị định 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015.
[42] Trường Trung cấp Đông Dương, Trung cấp Việt Khoa, trường Cao đẳng Viễn Đông và phân hiệu tại Cần Thơ của trường Trung cấp Đông Nam Á.
[43] Thành phố cấp thêm hơn 1ha đất và ghi vốn số tiền 200 tỷ để xây dựng mới trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Quận 12, cấp 60 tỷ để sửa chữa và trang thiết bị phục vụ dạy học tại trường trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Hóc Môn; ngoài ra nhiều trường ngoài công lập đã có đất và đang tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xây dựng trường theo đúng đề án xin thành lập trường như: trường trung cấp Ánh Sáng, trường trung cấp Phương Nam, trường trung cấp Âu Việt….
[44] Số liệu từ ngày 01/01/2014 đến ngày 15/10/2014.
[45]Số ca tay chân miệng xuất viện trong 9 tháng đầu năm 2014 là 5.382 ca, không có trường hợp tử vong (số ca nhập viện tay-chân-miệng cao hơn số ca xuất viện do các ca tay-chân-miệng, nhập viện chẩn đoán ban đầu là tay-chân-miệng trong quá trình điều trị do không phải là bệnh tay-chân-miệng nên bị loại trừ. Do số ca tay-chân-miệng xuất viện chỉ được thống kê khi bệnh nhân được xuất viện nên không thể có số liệu kịp thời đến ngày báo cáo).
[46] Quận 8: 1 ca, huyện Củ Chi: 3 ca, quận Bình Tân: 1 ca. Trong 9 tháng đầu năm 2014, toàn Thành phố có 3.150 trường hợp xuất viện với chẩn đoán bệnh là sốt xuất huyết; tử vong 05 ca (số ca nhập viện sốt xuất huyết cao hơn số ca xuất viện do các ca sốt xuất huyết nhập viện chẩn đoán ban đầu có triệu chứng giống bệnh sốt xuất huyết trong quá trình điều trị do không phải là bệnh sốt xuất huyết nên bị loại trừ. Do số ca sốt xuất huyết xuất viện chỉ được thống kê khi bệnh nhân được xuất viện nên không thể có số liệu kịp thời đến ngày báo cáo).
[47] Các bệnh viện TP tham gia: Nhi đồng 1, Nhi đồng 2, Chấn thương chỉnh hình, Ung bướu, Nhân dân Gia Định, Từ Dũ.
[48] Quận 5, 6, 8, 9, 12, quận Gò Vấp, Huyện Cần Giờ, Huyện Nhà Bè, Huyện Củ Chi, Huyện Bình Chánh.
[49] Trung tâm Phú Văn, Phú Đức, Phú Nghĩa, Đức Hạnh, Bình Đức.
[50] 17 bệnh viện tuyến TP cử 59 bác sĩ đến làm việc tại 12 bệnh viện tuyến quận/huyện, thời gian công tác từ 01 đến 03 năm.
[51] BV Chấn thương chỉnh hình đã triển khai 100 giường tại BV An Bình; Khoa chấn thương chỉnh hình tại BV quận Tân Phú đã triển khai 50 giường để điều trị vật lý trị liệu và phục hồi chức năng cho các bệnh nhân được chuyển từ BV Chấn thương chỉnh hình. BV Nhi Đồng 1 lập khoa vệ tinh với 150 giường nhi tại BV quận Bình Tân và BV quận Tân Phú 70 giường. BV Nhi Đồng 2 triển khai khoa vệ tinh với 50 giường tại BV quận 2. BV Ung bướu xây dựng khoa vệ tinh tại BV quận 2 với 150 giường cho khoa nội ung bướu.
[52] trừ BV Quận 1 không đăng ký triển khai do điều kiện cơ sở vật chất không đảm bảo; 20 bệnh viện đạt yêu cầu thẩm định và đều đã nhận công văn phê duyệt thành lập phòng khám Bác sĩ gia đình của Sở Y tế, trừ Bệnh viện Quận 9 và Bệnh viện Cần Giờ không đạt thẩm định do không có nhân sự được đào tạo chuyên ngành Y học gia đình. Tính đến tháng 9 năm 2014 các phòng khám Bác sĩ gia đình đã thực hiện 138.222 lượt khám chữa bệnh cho 28.812 bệnh nhân, lập hồ sơ quản lý sức khoẻ cho 22.466 người.
[53] 102 Trạm Y tế của 24 quận - huyện đăng ký, chỉ có 88 Trạm Y tế của 22 quận - huyện thẩm định đạt; 88 Trạm Y tế đã nhận công văn phê duyệt thành lập phòng khám Bác sĩ gia đình của Sở Y tế. Tính đến tháng 9 năm 2014 các phòng khám Bác sĩ gia đình đã thực hiện 35.703 lượt khám chữa bệnh cho 10.181 bệnh nhân, lập hồ sơ quản lý sức khoẻ cho 3125 người.
[54] Tại Quận 9, Quận 12, Huyện Bình Chánh.
[55] Trong đó: có 14 trường Cao đẳng nghề, 29 trường Trung cấp, 62 Trung tâm dạy nghề và 325 cơ sở dạy nghề.
[56] Trong đó: hệ cao đẳng nghề là 14.609 sinh viên, hệ trung cấp nghề là 6.261 học sinh, hệ sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên là 422.665 học viên.
[57] Số liệu từ ngày 01/01/2014 đến ngày 14/10/2014.
[58] Trong đó có 1.102 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (225 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng hưởng trợ cấp hàng tháng, 877 Thân nhân của Bà Mẹ Việt Nam anh hùng hưởng trợ cấp 01 lần).
[59] thăm hỏi tặng quà 136.642 người với tổng kinh phí hơn 47,62 tỷ đồng; xây dựng 28 căn nhà tình nghĩa với hơn 1,873 tỷ đồng; 33 căn nhà tình thương cho diện chính sách với kinh phí gần 1,1 tỷ đồng và sửa chữa chống dột cho 90 hộ với kinh phí hỗ trợ gần 1,433 tỷ đồng; vận động Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” đạt 7,253 tỷ đồng và tặng 309 sổ tiết kiệm với 404 triệu đồng. Thực hiện giải quyết trợ cấp ưu đãi 4.826 trường hợp học sinh - sinh viên với hơn 13 tỷ đồng; cấp 2.102 thẻ Bảo hiểm y tế cho đối tượng hưởng trợ cấp xã hội tại cộng đồng.
[60] Thành phố đã cấp trên 504.735 thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi với hơn 155,3 tỷ đồng, đạt trên 97%; đã chuyển gửi và giải quyết 33 hồ sơ trẻ gia đình nghèo được phẫu thuật tim miễn phí; tổ chức trại hè “Chắp cánh ước mơ” năm 2014 cho 350 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đã tham vấn, tư vấn cho 3.452 trường hợp về các chế độ chính sách liên quan đến trẻ em; tổ chức 04 Hội thảo liên quan về công tác Bảo vệ chăm sóc trẻ em; can thiệp, hỗ trợ, xử lý kịp thời 57 trường hợp liên quan đến quyền trẻ em
[61] Hoạt động vì an sinh xã hội tiếp tục được đẩy mạnh thông qua chiến dịch Xuân tình nguyện; hoạt động bán hàng lưu động bình ổn giá phục vụ thanh niên công nhân; thăm và tặng quà cho các Mẹ Việt Nam Anh hùng, gia đình chính sách, trẻ em tại nhà mở, mái ấm,… Thành lập các đội hình thanh niên tình nguyện hỗ trợ bệnh nhân tại 05 bệnh viện: Chợ Rẫy, Ung bướu, Truyền máu huyết học, 115 và Nhân dân Gia Định. Phong trào “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” đạt kết quả tốt với chương trình “Tiếp sức người lao động 2014”, Ngày hội “Tư vấn tuyển sinh - Hướng nghiệp”, Hội thi “Học sinh giỏi nghề”…
[62] Theo Báo cáo số 1198/BC-CATP-PV11 ngày 27/10/2014 của Công an Thành phố (số liệu được tính từ ngày 16/11/2013-15/10/2014).
[63] Theo dự thảo báo cáo của Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy (số liệu tính từ ngày 16/12/2013 đến 15/10/2014).
[64] Đảng viên = 21,35% , đoàn viên = 65,3% so tổng số dân quân tự vệ.
[65] Đã tổ chức chi trả cho các đối tượng theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ là 7 đợt cho 22.622 trường hợp, tổng kinh phí 91,8 tỷ đồng .
[66] Tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho 890 đ/c đối tượng 3, 11.940 đ/c tượng 4 và các đối tượng khác. Triển khai, tổ chức các hoạt động Kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam; phối hợp với Ban Tổ chức Lễ cấp Quốc gia xây dựng Kế hoạch tổ chức Kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
[67] 100% bệnh viện, trung tâm y tế do thành phố quản lý và 19/22 bệnh viện thuộc Bộ, ngành Trung ương có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường; còn 03/22 cơ sở đang trong quá trình xây dựng hệ thống xử lý nước thải bao gồm: Bệnh viện 30/4 (Bộ Công an); Bệnh viện Giao thông vận tải 8 (Bộ Giao thông vận tải); Trung tâm phục hồi chức năng (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội).
[68] Nhà máy xi măng Hà Tiên và nhà máy đóng tàu Ba Son.
[69] hỗ trợ cho xúc tiến đầu tư, thương mại, xuất nhập khẩu, du lịch, mở rộng thị trường, kết nối ngân hàng với doanh nghiệp, bình ổn thị trường, đầu tư trang thiết bị mới, kết nối thương mại giữa Thành phố và các vùng kinh tế trọng điểm để hỗ trợ tiêu thụ hàng hóa trong nước, tạo động lực mới trong các doanh nghiệp.
[70] Đóng góp TFP vào tăng trưởng: năm 2010 là 28,3; năm 2011 là 29,1; năm 2012 là 30,1; năm 2013 là 33,4.
[71] Hệ số ICOR: năm 2010 là 3,55; năm 2011 là 3,64; năm 2012 là 3,87; năm 2013 là 3,61 và năm 2014 là 3,45.
[72] Tiếp tục thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp đến năm 2015 là 31 doanh nghiệp; Hoàn thành sắp xếp, tổ chức lại 19 doanh nghiệp (giải thể 6 doanh nghiệp, phá sản 6 doanh nghiệp, bán 5 doanh nghiệp, chuyển thành công ty cổ phần 2 doanh nghiệp).
[73] Triển lãm Quốc tế Du lịch ITE 2015, Ngày hội du lịch, Đường hoa Thành phố Hồ Chí Minh, “Thành phố Hồ Chí Minh - 100 điều thú vị”; sản phẩm tuyến du lịch đường sông; các chương trình nghệ thuật phục vụ khách du lịch...
[74] Lễ hội đón chào năm mới 2015; Lễ hội đón giao thừa năm Ất Mùi 2015; Lễ kỷ niệm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương; 40 năm Lễ kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4; kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5; các hoạt động kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; kỷ niệm Ngày Bác ra đi tìm đường cứu nước; kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2/9.
[75] Trung học phổ thông Lê Quý Đôn - Quận 3; Trung học phổ thông Nguyễn Du - Quận 10; Trung học phổ thông Nguyễn Hiền - Quận 11.
[76] Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Trung học phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa, Trung tâm Giáo dục thường xuyên Chu Văn An, Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Phú Lâm, Cao đẳng Công nghiệp Thủ Đức, Xây mới trường Trung học phổ thông chất lượng cao Cát Lái.
[77] Tiếp tục triển khai thực hiện 31 công trình nông thôn mới theo Quyết định số 459/QĐ-UBND ngày 24/01/2014 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về giao kế hoạch đầu tư xây dựng năm 2014 (đợt 1) nguồn vốn ngân sách tập trung, nguồn vốn xổ số kiến thiết.
[78] Thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân Thành phố tại Thông báo số 217/TB-VP ngày 21/3/2014 về việc đề xuất chính sách khuyến khích xã hội hóa giáo dục mầm non theo hướng đẩy mạnh cho vay vốn kích cầu trong đó thực hiện cho vay vốn và Thành phố trả lãi vay đối với 90 dự án mầm non với tổng cộng 121 dự án trong năm học 2014-2015.
[79] Theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới.
[80] Mầm non: 1169 phòng. Tiểu học: 906 phòng, Trung học cơ sở: 478 phòng, Trung học phổ thông: 15 phòng, Giáo dục thường xuyên: 20 phòng, Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp : 20 phòng
[81] Bơi lội, điền kinh, cầu lông, bóng chuyền, bóng rổ, bơi lội.
[82] Đây là số liệu ước của các Sở, ngành để kịp thời thông tin báo cáo trong kỳ họp Hội đồng nhân dân Thành phố; Ủy ban nhân dân Thành phố đang chỉ đạo các sở - ngành liên quan kiểm tra, rà soát kỹ về thực trạng sử dụng nước hợp vệ sinh và các giải pháp đầu tư cung cấp nước sạch thay thế nước hợp vệ sinh cho các hộ dân ở nông thôn.
[83] Nhà máy xi măng Hà Tiên và nhà máy đóng tàu Ba Son.
[84] 03/22 cơ sở thuộc Trung ương quản lý chưa hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải: Bệnh viện 30/4 (Bộ Công an); Bệnh viện Giao thông vận tải 8 (Bộ Giao thông vận tải); Trung tâm phục hồi chức năng (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội).
[85] Năm 2013, Thành phố đạt 43 giường bệnh/10.000 dân; chủ yếu là bố trí thêm giường để giảm bớt tình trạng quá tải tại các bệnh viện, chưa đạt yêu cẩu về diện tích sàn xây dựng/giường bệnh. Ngành Y tế đặt ra chỉ tiêu đạt 42 giường bệnh/10.000 dân, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn diện tích sàn xây dựng/giường bệnh theo quy định của Bộ Y tế.
[86] 2 cơ sở gây ô nhiễm là Nhà máy xi măng Hà Tiên và nhà máy đóng tàu Ba Son (trực thuộc Trung ương quản lý) dự kiến đến năm 2017 - 2018 mới di dời.
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.