CHẤT LƯỢNG ĐẤT - XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG SUNFAT TAN TRONG NƯỚC VÀ TAN TRONG AXIT
Soil quality - Determination of water-soluble and acid-soluble sulfate
Lời nói đầu
TCVN 6656 : 2000 hoàn toàn tương đương với ISO 11048 : 1995. TCVN 6656 : 2000 do Ban Kỹ thuật Tiêu chuẩn TCVN/TC 190
Chất lượng đất biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành.
CHẤT LƯỢNG ĐẤT - XÁC ĐỊNH HÀM LƯỢNG SUNFAT TAN TRONG NƯỚC VÀ TAN TRONG AXIT
Soil quality – Determination of water-soluble and acid-soluble sulfate
Tiêu chuẩn này quy định các qui trình chuẩn bị để chiết bằng nước và axit đối với đất được làm khô trong
không khí và các vật liệu giống đất. Xác định sunfat đã chiết được bằng phương pháp khối lượng, trong phương pháp này bari clorua được cho vào dịch chiết bằng nước và dịch chiết bằng axit, kết tủa bari sunfat được sấy khô và cân. Hàm lượng sunfat tính được từ khối lượng vật liệu đã dùng để phân tích và khối lượng bari kết tuả.
Tiêu chuẩn này áp dụng cho tất cả các loại đất được làm khô trong không khí, thí dụ như đất đã được chuẩn bị theo TCVN 6647: 2000 (ISO 11464).
Tiêu chuẩn này bao gồm 7 chương. Chương 1: Khái quát
Chương 2: Xử lý sơ bộ mẫu thử và xác định hàm lượng chất khô
Chương 3: Chiết đất bằng nước theo tỷ lệ khối lượng : thể tích là 1 đất : 5 nước
Chương 4: Chiết đất bằng nước theo tỷ lệ khối lượng : thể tích là 1 đất : 2 nước
Chương 5: Chiết đất bằng axit clohydric loãng
Chương 6: Xác định sunfat trong dung dịch bằng phương pháp khối lượng sử dụng bari clorua
Chương 7: Độ chính xác của phương pháp thử và báo cáo kết quả
TCVN 4851 : 1989 (ISO 3696) Nước dùng để phân tích trong phòng thí nghiệm - Yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử.
TCVN 6656 : 2000
TCVN 6200 : 1996 (ISO 9280: 1990) Chất lượng nước – Xác định sunfat. Phương pháp khối lượng sử dụng bari clorua.
TCVN 6647 : 2000 (ISO 11464) Chất lượng đất – Xử lý sơ bộ mẫu để phân tích lý – hoá.
TCVN 6648 : 2000 (ISO 11465) Chất lượng đất – Xác định hàm lượng chất khô và hàm lượng nước theo khối lượng. Phương pháp khối lượng.
Các mẫu đất được làm khô trong không khí được chiết bằng:
- axit clohydric loãng; hoặc
- nước theo tỷ lệ khối lượng : thể tích là 1 đất : 2 nước, hoặc 1 : 5.
Hàm lượng sunfat đã chiết được xác định bằng phương pháp khối lượng, trong phương pháp này bari clorua được cho vào dịch chiết bằng nước và dịch chiết bằng axit, kết tủa bari sunfat được sấy khô và cân. Hàm lượng sunfat tính được từ khối lượng đất đã dùng để phân tích và khối lượng bari sunfat kết tuả.
Chương 6 giống với TCVN 6200: 1996 (ISO 9280).
Hiện sẵn có những phương pháp xác định sunfat có thể chấp nhận được nhưng các phương pháp này không đề cập trong tiêu chuẩn này. Các phương pháp thích hợp có thể là: chuẩn độ trực tiếp bari, phương pháp đo phổ phát xạ cặp cảm ứng plasma, phân tích dòng chảy bằng phương pháp đo độ đục, đo quang phổ gián tiếp của dòng liên tục sử dụng 2-amionperimidin, đo màu bằng kỹ thuật dòng liên tục có khi phân đoạn dùng chỉ thị metylthymol xanh và sắc ký ion. Nên tiến hành đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế và quốc gia thích hợp về khả năng áp dụng và giới hạn của các phương pháp đó.
1.4 Khả năng áp dụng và các hạn chế
Các qui trình trong chương 3 và chương 4 đề cập đến việc chiết sunfat từ các loại đất và có thể liên quan đến việc đánh giá “khả năng cung cấp” sunfat đối với cây trồng (có những loại chất chiết đã dùng cho các mục đích này và không thể áp dụng chung cho tất cả các loại đất và các loại khí hậu). Nên chú ý rằng ở đây chưa kiểm chứng được mối quan hệ giữa sunfat có thể chiết được bằng nước và nhu cầu phân bón lưu huỳnh. Quy trình qui định trong chương 4 cũng liên quan đến tác động của sunfat đối với vật liệu xây dựng, đặc biệt là bê tông.
Việc sử dụng các qui trình mô tả trong chương 4, 5 và chương 6 phân biệt sự hiện diện các sunfat độ tan cao trong nước và các sunfat độ tan hạn chế như thạch cao (CaSO42H2O)
Chương 6 có thể áp dụng cho các nồng độ ion sunfat (SO42-) trong dung dịch 10 mg/l và cao hơn, tức là liên quan đến các phương pháp trong chương 3 và chương 4 đối với các nồng độ tối thiểu có thể tan trong nước của đất được làm khô trong không khí 50mg/kg và 20mg/kg [0,005% và 0,002% (m/m)] tương ứng và liên quan đến phương pháp trong chương 5 đến nồng độ tối thiểu có thể tan trong axit của đất được làm khô trong không khí khoảng 500 mg/kg [0,05% (m/m)].
Nếu nồng độ có trong dung dịch thấp hơn nồng độ trên thì cần đến giai đoạn cô đặc, hoặc phải sử dụng qui trình phân tích chính xác hơn qui trình trong chương 6 này [thí dụ, sắc ký ion, quang phổ phát xạ nguyên tử (AES) hoặc quang phổ phát xạ cặp plasma (ICP)].
Trong phần lớn các trường hợp, một phân tích hoàn chỉnh đất về nồng độ và trạng thái tự nhiên của sunfat cần xác định theo quy trình trong chương 5 và chương 3 hoặc chương 4 hoặc cả hai phần, phần nào thích hợp hơn cho mục đích nghiên cứu của đất.
Các phương pháp được mô tả cần thích hợp cho “nhiều loại đất” bao gồm đất nông nghiệp và các vật liệu của khu vực bị ô nhiễm. Tuy nhiên, không có một phương pháp nào có thể áp dụng chung cho tất cả các loại đất và người sử dụng phải thừa nhận thực tế này và đôi khi phải chuẩn bị đối phó với những khó khăn gặp phải. Các loại đất chứa sunfat cần có sự chú ý đặc biệt (xem chú thích 7 của 5.1).
“Đất” từ các khu bị ô nhiễm, thí dụ như khu vực trước đó đã dùng cho các nhà máy sản xuất khí và khu đổ than bùn, có thể chứa nhiều loại lưu huỳnh (thí dụ, lưu huỳnh nguyên tố, sunfat, sunfit, thiosunfat, thioxyanat) mà có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác dưới các điều kiện hoá học thay đổi và / hoặc do tác động của vi khuẩn. Sự có mặt của các ion khác có thể ảnh hưởng đến độ hoà tan. Do đó, trong các trường hợp này phải đặc biệt chú ý khi lấy mẫu và khi giải thích kết quả.
Các hạn chế của phương pháp ở chương 6, đã khẳng định các nồng độ có thể chấp nhận được của các ion khác có liên quan.
Các phép thử được trình bày một cách cụ thể và nghiêm ngặt vẫn không thể coi là phép đo đúng hàm lượng sunfat thực trong đất, cho dù độ tái lập có thể đạt tốt.
Do độ hoà tan của một số sunfat bị hạn chế (thí dụ như canxi sunfat) và khả năng bị ảnh hưởng bởi các ion khác, nên việc chiết đơn theo quy trình mô tả trong chương 3 có thể không cho được số đo đúng về hàm lượng sunfat “tổng số có thể chiết được bằng nước”. Vấn đề này có thể giải quyết bằng cách chiết lại một hoặc nhiều lần trên cùng mẫu thử, hoặc tăng tỷ lệ nước: đất. Cách khác có thể sử dụng dung dịch chiết “đệm” để làm tăng độ hòa tan của các sunfat có mặt, nhưng các qui trình như thế không nằm trong phạm vi tiêu chuẩn này.
Nếu chỉ có mặt cation canxi, thì ion sunfat trong dung dịch sẽ không vượt quá 1441mg SO42-/l ở 200C. Điều này có nghĩa là lượng sunfat tối đa có thể chiết được từ loại đất như thế bằng quy trình trong chương 3 là 4
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.