TIÊU CHUẨN VIỆT NAM
TCVN 5998:1995
ISO 5667-9: L992
CHẤT LƯỢNG NƯỚC - LẤY MẪU - HƯỚNG DẪN LẤY MẪU NƯỚC BIỂN
Water quality - Sampling - Guidance on sampling from sea water
1. Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này hướng dẫn những nguyên tắc để lập các chương trình lấy mẫu, các kĩ thuật lấy mẫu và bảo quản, xử lí mẫu nước biển (thí dụ ở cửa sông, lối vào của thuỷ triều vùng ven bờ biển và ngoài khơi). Tiêu chuẩn này không áp dụng cho lấy mẫu để phân tích vi sinh hoặc sinh vật. Hướng dẫn chung về lấy mẫu để phân tích vi sinh theo
ISO 8199.
Những mục đích chính của tiêu chuẩn này là:
1.1 Đo đặc tính chất lượng
Đo những thay đổi về sự phân bố theo không gian và khuynh hướng theo thời gian của chất lượng nước nhằm xác định những tác động của khí hậu, hoạt động sinh học chuyển động nước và ảnh hưởng của con người, đồng thời giúp cho việc xác định độ lớn và hậu quả của những biến động trong tương lai.
1.2. Đo kiểm soát chất lượng
Đo chất lượng nước trong thời gian dài ở một số hoặc nhiều vị trí nhất định độ xác định xem chất lượng nước, một khi đã hiểu rõ, còn thích hợp cho mục đích sử dụng như bãi tắm, bảo vệ thủy sản, làm sạch hoặc làm ngọt hay không, và những biến đổi quan sát được có thể chấp nhận được hay không
1.3. Đo vì những lí do đặc biệt
Nhằm đánh giá nguyên nhân, mức độ và tác động của những thay đổi đáng kể về chất lượng nước; để nghiên cứu nguồn gốc và hậu quả của các chất ô nhiễm thải ra biển. Phát hiện ô nhiễm, thí dụ khi thấy chim, cá, động vật không xương sống bị chết, hoặc những hiện tượng rõ ràng khác như mầu sắc, đục, tạo lớp nổi rác rưởi hoặc dầu đều có thể nghĩ tới sự thải hoặc sự cố tràn dầu, các sinh vật phù du sinh trưởng quá mức. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng mục tiêu này thường rất khó đạt được. Sinh vật bị chết có thể là hiện tượng tự nhiên, còn sự tích tụ các chất ô nhiễm thường lại không nhìn thấy.
1.4. Kiểm tra tác động của các công trình xây dựng
Việc kiểm tra là nhằm đánh giá những thay đổi của chất lượng nước gây ra bởi những công trình như đập, đê, cầu, cảng và do dùng một lượng lớn nước biển để thải chất thải.
2. Tiêu chuẩn trích dẫn.
2.1. Những mẫu dưới mặt nước có thể lấy bằng cách đơn giản: nhúng bình lấy mẫu xuống nước (dùng tay), mở nút cho nước vào đấy bình rồi đậy lại. Điểm cơ bản là phải tráng bình nhiều lần bằng nước sẽ lẫy mẫu trước khi lấy hẳn. Người lấy mẫu phải dùng bao tay bằng chất dẻo để tránh nhiễm bẩn mẫu. Mẫu phải được lấy ở trên dòng chảy chỗ nước thoáng. Điều đó có thể thực hiện được bằng cách lấy mẫu ở trước mũi tàu, thuyền khi chạy chậm vào chỗ có gió hay dòng hải lưu. Phương pháp đơn giản này giảm đến tối thiểu sự nhiễm bẩn và tránh được phần lớn mất mát do hấp phụ lên mặt trong của dụng cụ lấy mẫu.
Dụng cụ lấy mẫu theo chiều sâu được trình bày ở 4.2.2 đến 4.2.4.
Chú thích 4: Chi tiết hơn xem ở "Methods of Seawater Analysis “(1983)[2] (“Các phương pháp phân tích nước biển”)
2.1.1. Dụng cụ lấy mẫu mở và lấy mẫu bề mặt
Dụng cụ lấy mẫu mở là những bình hở miệng dùng để lấy mẫu ngay sát dưới mặt nước. Không nên dùng loại này để lấy mẫu ở sâu hơn vì bị ô nhiễm bởi lớp nước ở bề mặt. Lớp nước ở bề mặt có thể chứa một số chất làm sai lạc nồng độ chung của mẫu.
Muốn lấy mẫu lớp nước rất mỏng trên bề mặt cần có dụng cụ đặc biệt, nhưng thường rất khó lấy được mẫu đại diện trong điều kiện ở hiện trường.
Chú thích 5: Thực tế chỉ có thể lấy mẫu lớp nước rất mỏng trên bề mặt bằng phương pháp định tính. Tuy nhiên, đặc điểm hóa học về lớp mỏng này và các phương pháp lấy mẫu nó đã được Liss nghiên cửu (1975)[3]
2.1.2. Thiết bị ống kín
Thiết bị lấy mẫu ống kín là những ống rỗng được đậy kín bằng các van hoặc nút, dùng để lấy mẫu ở độ sâu đã định (mẫu đơn hoặc mẫu loạt) hoặc để lấy mẫu tổ hợp theo chiều sâu.
Hầu hết các thiết bị loại này được làm bằng polyvinyl clorua (PVC) hoặc vật liệu tương tự, và như vậy chúng là nguồn gây nhiễm bẩn mẫu. Để tránh điều này cần tráng mặt trong thiết bị bằng plytetrafloetylen (PTFE) và dùng các gioăng bằng
(PTFE) “O” hoặc cao su silicon. Cần tránh dùng các lò xo ở phía trong bằng cao su
và lò xo ở phía ngoài bằng kim loại vì chúng có thể gây nhiễm bẩn các chất cần xác định.
Có hai kiểu thiết kế:
- Choán chỗ không khí ;
- Hở hai đầu.
Kiểu choán chỗ không khí được đậy kín hai đầu bằng các nút, các nút này được cố định vào một sợi dây không đàn hồi dùng để nhúng thiết bị xuống nước, hoặc vào một sợi dây thứ hai dẫn lên mặt nước. áp suất và sức cản của nước hạn chế độ sâu mà các thiết bị kiểu này có thể hoạt động tốt. Bởi vậy chúng thích hợp chủ yếu cho lấy mẫu ở vùng cửa sông hoặc lấy mẫu lớp nước bề mặt ở ngoài khơi.
Kiểu hở hai đầu cố định vào một dây cáp thủy văn, và cho nước tự do đi qua khi được thả xuống. Nhất thiết phải dùng cáp thủy văn hoặc dây phi kim loại khi lấy mẫu phân tích các vết kim loại hoặc hydrocacbon. Các ống lấy mẫu được đóng chặt bằng nắp hoặc van điều khiển bằng điện, bằng vật nặng có điều khiển hoặc nhờ áp lực nước. Khi đã tới vị trí, dụng cụ lấy mẫu cần khoảng 5 phút để "làm quen” với xung quanh trước khi vận hành. Nếu dùng vật nặng để điều khiển thì nó phải được bọc chất dẻo. Một vài kiểu khi nhúng xuống thì van lá đóng nhằm tránh bị ô nhiễm do lớp nước rất mỏng trên mặt và các lớp nước khác.
Khi lấy mẫu ở nơi có dòng chẩy mạnh hoặc ở độ sâu lớn, cáp thủy văn dường như không thể đứng thẳng. Vị trí của dụng cụ khi đó có thể được xác định theo máy đo áp suất hoặc âm phản xạ. Trong những tình huống đơn giản hơn có thể đo chiều dài của dây và góc nghiêng rồi tính độ sâu theo hình học.
Những tiêu chuẩn sau đây được áp dụng cùng với tiêu chuẩn này:
ISO 5667- l: 1980, Chất lượng nước - Lấy mẫu: Hướng dẫn lập các chương trình lấy mẫu
TCVN 5992: 1995 Chất lượng nước - Lấy mẫu: Hướng dẫn kĩ thuật lấy mẫu (ISO 5667- 2: 1991)
TCVN 5993: 1995 Chất lượng nước – Lấy mẫu: Hướng dẫn bảo quản và xử lí mẫu
(ISO 5667- 3: 1991)
TCV N 5994: 1995 Chất lượng nước - Lấy mẫu: Hướng dẫn lấy mẫu ở hồ ao tự nhiên và nhân tạo. (lSO 5667- 4: 1991).
TCVN 5981: 1995 Chất lượng nước - Thuật ngữ - Phần 2 (ISO 6107- 2: 1989)
ISO 8199: 1988, Chất lượng nước – Hướng dẫn chung về đếm sinh vật bằng nuôi cấy
3.2. Định nghĩa
Trong tiêu chuẩn này áp dụng những định nghĩa sau đây:
Mẫu đơn: mẫu riêng lẻ, được lấy ngẫu nhiên từ một vùng nước (có chú ý đến thời gian và/hoặc địa điểm). [TCVN: 5981: 1995 (ISO 6107- 2)]
Mẫu theo chiều sâu: một loạt mẫu nước lấy ở các độ sâu khác nhau của một vùng nước ở một địa điểm đã định [TCVN 5994: 1995 (ISO 5667- 4)]
Chú thích 1: Để biết được đặc tính chất lượng của một vùng nước cần lấy mẫu theo chiều sâu ở nhiều địa điểm khác nhau.
Mẫu theo diện tích: một loạt mẫu nước lấy ở một độ sâu xác định của một vùng nước và ở nhiều địa điểm khác nhau. Với nước có thủy triều, lấy theo chiều dọc (dọc theo kênh) hoặc theo chiều ngang (cắt ngang kênh), với nước ven bờ hoặc ngoài khơi, lấy theo một lưới phẳng hoặc hai chiều [TCVN 5994: 1995 (ISO 5667- 4)]
Chú thích 2: Như trong 3.2 để làm rõ đặc tính có thể yêu cầu lấy mẫu theo ba chiều.
Mẫu tổ hợp: hai hoặc nhiều mẫu trộn lẫn với nhau theo tỉ lệ thích hợp (gián đoạn hoặc liên tục), từ đó có thể thu được kết quả trung bình của một đặc tính cần biết. Tỉ
lệ thường dựa theo việc đo thời gian hoặc đo dòng chảy [ISO 6107-2].
4.2. Thiết bị lấy mẫu
4.1. Bình chứa mẫu
Hướng dẫn chung theo TCVN 5992: 1995 (ISO 5667- 2).
Cần hết sức chú ý đến vấn đề tránh nhiễm bẩn mẫu hoặc mất mát các chất ở lượng
rất nhỏ thường có trong nước biển do hấp phụ, và đến các vấn đề liên quan đến lượng ion cao của nước biển so với hầu hết các loại nước tự nhiên khác. Cần dùng bình bằng thủy tinh hoặc các vật liệu trơ khác nếu thấy có khả năng tương tác giữa mẫu và bình chứa
Chú thích 3: Chi tiết hơn đã được Berman và Yeats trình bày (1985)[1]
Khi lấy màu ở biển cần tránh dùng các bình dễ vỡ.
4.2. Các loại thiết bị lấy mẫu
4.2.1. Mở đầu
Chất lượng các loại nước thủy triều chịu ảnh hưởng của xói mòn, lưu lượng sông, các dòng thải và đặc biệt là mức thủy triều. Kết quả là chất lượng nước có thể không đồng đều cả về chiều thẳng đứng và chiều ngang. Để nhận được hình ảnh đúng về sự phân bố không gian, trước tiên phải xác định được mô hình "trộn". Mô hình “trộn” có được nhờ đo hàng loạt các thông số như nhiệt độ, độ dẫn (độ muối), nồng độ oxy, độ đục và/hoặc huỳnh quang clorophyl. Thí dụ sự phân phối của độ muối dọc theo một của sông có thể xác định bằng nhũng máy đo tại chỗ, theo diện tích ở một độ sâu xác định hoặc theo chiều sâu ở một vị trí xác định. Kết qủa của hàng loạt phép đo như vậy cho phép nội suy theo không gian và thời gian để thu được mô hình “trộn" của thủy triều.
Việc lấy mẫu tiếp theo cần phải hướng vào những chỗ bất đồng nhất đã xác định được thí dụ, lấy mẫu ở những khoảng độ muối 2 [UNESCO (1981)[5] ] hoặc những khoảng thích hợp hơn với mẫu theo diện tích, và lấy mẫu trên bề mặt, ở độ sâu trung bình và ở đáy với mẫu theo chiều sâu.
Khi nghiên cứu sự lan tỏa của một dòng thải từ một cửa thải nêng biệt, có thể quan sát thấy những vệt nước phân biệt trong thời gian lấy mẫu. Nếu sự lan toả đó không thấy được thì có thể dùng phương pháp đánh dấu, thí dụ dùng phẩm màu huỳnh quang, để trợ giúp cho việc lấy mẫu. Tuy nhiên, quan hệ giữa độ muối của các mẫu với nồng độ các chất hòa tan đối với những mẫu thu được trong toàn bộ giải biến thiên của độ muối cũng cho phép đánh giá được sự hình thành, sự mất đi hoặc sự tồn lưu của các chất. Điều đó có thể dùng làm chỉ thị cho phần góp tương đối của hóa chất từ các nguồn thải riêng rẽ.
5.1.2 Vùng ven bờ
Vùng ven bờ gồm vịnh, cảng và nhũng nơi cách bờ trong vòng ba dặm. Chất lượng nước ở vùng này cũng chịu ảnh hưởng của xói mòn, sông và dòng thải, và như vậy cũng có thể không đồng đều theo cả hai chiều thẳng đứng và nằm ngang. Do đó, để có đọc hình ảnh đúng như của sự phân bố theo không gian cũng cần nghiên cứu xác định mô hình "trộn". Việc lấy mẫu tiếp theo phải nhằm vào những chỗ bất đồng nhất đã xác định được theo chiều thẳng đứng hoặc nằm ngang. Sự phân bố của một số chất, thí dụ các chất dinh dưỡng, có thể liên quan đến những yếu tố khác ngoài sự phân bố nhiệt độ và độ muối và đòi hỏi nghiên cứu riêng.
5.1.3. Ngoài khơi ở vùng này chất lượng nước nói chung ít thay đổi, nhưng do những dòng chảy dọc và từ dưới lên, những thay đổi đáng kể có thể xảy ra. Sự điều tra thủy văn ban đầu sẽ cho biết những thay đổi như vậy có xảy ra hay không. ở những nơi như vậy thì độ muối, nhiệt độ, mật độ là những yếu tố giúp việc xác định mô hình trộn.
Điều đó cho phép lấy mẫu ở những tầng nước thích hợp có mật độ khác nhau
Không nên lấy quá nhiều mẫu ở một lớp nước đồng đều, trừ trờng hợp lấy mẫu lặp cho mục đích thống kê.
Hướng dẫn về thống kê xem ở ISO 5667- 1.
5.2. Tần số và thời gian lấy mẫu
Những thăng giáng theo chu kì hoặc bất thường ở quanh những điều kiện trung bình gây ra sự thay đổi theo thời gian về thành phần nước biển ở mỗi vị trí cố định. Tần số những thăng giáng như vậy thay đổi từ giây hoặc phút cho đến hàng năm. Những biển động chất lượng nước liên quan với những thay đổi dài hạn theo mùa như nhiệt độ mưa, nắng và với những thay đổi ngắn hạn như chu kì thủy triều (dâng cao, xuống thấp, rút chảy), sinh khối phù du và ánh sáng ban ngày.
Khi hiểu rõ những quá trình sinh học và vật lí xảy ra ở trong khu vực (dòng, pha trộn độ muối v,v...) thì có thể xác định được số mẫu cần lấy ở khu vực đó đủ để phân loại nước.
5.2.1. Tần số lấy mẫu
5.2.1.1. Tần số lấy mẫu để xác định đặc tính chất lượng nước
Mẫu để xác định đặc tính chất lượng cần được lấy trong mọi điều kiện không có ngoại lệ và được lặp đi lặp lại để bao gồm được khoảng bình thường của mọi điều kiện môi trường. Các vị trí lấy mẫu hoặc ở cùng thời điểm trong một chu kỳ thuỷ triều sao cho có thể nội suy tin cậy giữa các điểm, hoặc lấy đều đặn trong suốt chu kỳ thủy triều. Điều cơ bản là phải hoàn thành lấy mẫu nhanh chóng suốt cả mạng lưới nếu nh cần biểt sự phân bố ở một khoảnh khắc nhất định. Do sự vận động của thủy triều, những hiệu chính có thể được áp dụng cho các vị trí lấy mẫu theo thời điểm lấy mẫu thực, hoặc nồng độ quan sát được của những hóa chất hòa tan nhất định có thể được hiệu chính theo độ muối.
Để đặc trưng hóa đầy đủ có thể yêu cầu nghiên cứu hiệu ứng kết hợp của chu kỳ thủy triều, các điều kiện khí hậu thời tiết. Điều đó yêu cầu lấy mẫu ở những khoảng bao trùm một hoặc nhiều chu kì thủy triều được lặp lại một số lần thích hợp trong năm nhằm đảm bảo rằng các kết quả là hợp lí về mặt thống kê. Hướng dẫn chi tiết được trình bày trong ISO 5667- l.
Một điểm cơ bản là nhũng nghiên cứu xung quanh một chỗ thải cần tiến hành sao cho ở những chỗ thải gián đoạn thì tác động của thải và không thải có thể được quan trắc đầy đủ.
5.2.1.2. Tần số lay mẫu để kiểm tra chất lượng
Mẫu để kiểm tra chất lượng cần được lấy trong mọi điều kiện không có ngoại lệ về mặt thủy triều, dòng sông, thời tiết, mùa v.v. Nước thủy triều và nước ven bờ cần được lầy thường xuyên ở toàn bộ một chu kỳ thủy triều, tần số lấy phụ thuộc vào các thông số quan tâm. Sự quan trắc cần được lặp lại để bao trùm được khoảng bình thường của mọi điều kiện môi trường, trong đó có lấy những mẫu đặc biệt trong những điều kiện bất thường rõ rệt.
5.2.2. Xem xét thống kê
Hướng dẫn chi tiết về xem xét thống kê theo ISO 5667- 1.
Có thể dùng những đánh giá thống kê đơn giản về tần số lấy mẫu với giả thiết các số liệu là độc lập, ngẫu nhiên và tân theo phân bố chuẩn. Tuy nhiên, có thể yêu cầu lặp lại quá trình lấy mẫu để phát hiện những sai lệch nhỏ giữa các mẫu nước lấy ở nơi mà sự thay đổi cố hữu theo không gian và thời gian là rất lớn. Lập các chương trình lấy mẫu ở sông và dòng thải đã được Montgomery và Hart (1974) nghiên cứu
[6], trong đó có thể áp dụng nhiều kiến nghị cho nghiên cứu nước biển ven bờ.
Xem thông tin thêm ở mục 5.1.
5.2.3. Tối ưu hóa công việc lấy mẫu
Số mẫu lấy, xử lí, phân tích và báo cáo luôn có giới hạn, nhng giới hạn này không thể giảm cả về mặt không gian lẫn thời gian đến mủc không đạt được mục đích nghiên cứu. Phương pháp tối ưu có thể dẫn đến sự phân bố không đều các điểm lấy mẫu. Phân bố cần dày đặc hơn ở những vùng quan trọng và những quá trình đang cần theo dõi, và thưa hơn ở những nơi ít quan trọng. Hiểu biết về những điều kiện thủy văn và thủy học sẽ giúp tối ưu hóa công việc lấy mẫu.
5.3. Chọn phương pháp lấy mẫu
Chọn phương pháp lấy mẫu phụ thuộc vào mục tiêu của chương trình lấy mẫu. Phần lớn dùng mẫu đơn khi lấy mẫu vì lí do đặc biệt hoặc để kiểm tra chất lượng. Sự thay đổi do thủy triều có thể đòi hỏi một số mẫu đơn. Để quan trắc chất lượng nước cần lấy hàng loạt mẫu đơn gián đoạn, nhng cũng có thể dùng mẫu tổ hợp để giảm giá thành phân tích. Các mẫu tổ hợp được dùng khi yêu cầu về giá trị trung bình. Không dùng mẫu tổ hợp khi nghiên cứu chi tiết những điều kiện đặc biệt hoặc mức độ thay đổi chất lượng. Hai phương pháp có thể kết hợp: lấy mẫu tổ hợp trong từng khoảng thời gian ngắn, và thỉnh thoảng lấy hàng loạt mẫu đơn.
Lấy mẫu ở từng thời gian gián đoạn chỉ cho các kết quả đặc trưng cho các thời gian đó. Có những thời gian không nên lấy mẫu, thí dụ trong khi gió mạnh, rất nguy hiểm khi ra biển. Các trạm lấy mẫu tự động được dùng để kiểm soát chất lượng nước trong những điều kiện đặc biệt như vậy, hoặc để nghiên cứu tác động của những biến đổi không đều về chất lượng nước.
5.4. Bảo quản, ổn định, lọc và giữ mẫu
TCVN 5993: 1995 (ISO 5667- 3) nêu hướng dẫn chung về bảo quản và xử lí mẫu. Nên hòan thành việc xác định tại cho càng nhiều càng tốt miễn là không gây trở ngại cho chương trình lầy mẫu. Hơn nữa, một số chỉ tiêu như nhiệt độ, độ trong, độ mặn, pH, thế oxi hóa – khử và một số chỉ tiêu khác chỉ có thể xác định chính xác ngay tại chỗ.
Các bình chứa mẫu cần được đậy kín và tránh nhiệt, ánh sáng. Nếu không thể phân tích nguy trên tầu, thuyền, cũng không nên lưu giữ mẫu quá 24 giờ. Mẫu lưu giữ phải để ở 40C. Cần phải lọc, ổn định và bảo quản mẫu trước khi lưu giữ trong thời gian dài hơn. Cần chú ý những mẫu có chứa những lượng vết và lực ion cao.
6. Chú ý an toàn
ISO 5667- l đã trình bày một số chú ý an toàn chung. Những điều kiện ở biển làm cho việc dùng thuyền và các phương tiện lấy mẫu có thể gặp nguy hiểm. Cần phải tuân thủ mọi quy chế an toàn địa phương và chú ý phòng tránh và hạn chế rủi ro. Một điều cơ bản là phải dùng những thuyền bè thích hợp với nơi lấy mẫu, và các thủy thủ cần được huấn luyện và có kinh nghiệm trước khi được phép hoạt động ở môi trường đầy bất trắc này.
Luôn luôn phải mang theo trang bị an toàn thích hợp.
7. Nhận dạng mẫu và báo cáo
Cần ghi rõ nguồn gốc mẫu và những điều kiện hiện trường khi lấy mẫu. Báo cáo phải gồm thông tin sau:
a) Địa điểm lấy mẫu ;
b) Thời gian lấy mẫu (ngày tháng năm, giờ) ;
c) Độ sâu lấy mẫu ;
d) Các dữ liệu ở độ sâu lấy mẫu (thí dụ nhiệt dộ, độ muối, oxi hòa tan, pH, độ kiềm,
độ trong (đục), chầt rắn lơ lửng)
e) Tọa độ hàng hải của nơi lấy mẫu
f) Mô tả nơi lấy mẫu g) Điều kiện thời tiết ; h) Dòng thủy triều ;
i) Trạng thái biển khi lấy mẫu ;
j) Các độ sâu theo máy đo tại hiện trường ;
k) Các mẫu đã lấy, các yêu cầu cần xác định ;
l) Chi tiết về bảo quản hoặc ổn định.
Mỗi bình chứa mẫu cần được đánh dấu rõ ràng, khó bị xoá, bằng một số nhận dạng tương ứng với số trong hồ sơ lấy mẫu.
PHỤ LỤC A
CHO MỘT THÍ DỤ VỀ BÁO CÁO LẤY MẪU.
Phụ lục A
Thí dụ về một bản báo cáo lấy mẫu nước biển
Báo cáo - Lấy mẫu nước biển
Địa điểm:...............ngày.. ,....... tháng.......... năm........................……………………………
Vĩ tuyến.................Kinh tuyến....................... Giờ.....................…………………………….. Mô tả………………………………………………………………………………………….
Điều kiện thủy văn………………………………………………………………………. Dạng thủy triều: hướng.................. Tốc độ gấn đúng............................………………………
Thời gian nước cao....................... Thời gian nước thấp.....................……………………….. Gió: hướng...................... Cấp..................................................………………………………. Mây............................. Trạng thái biển......................................…………………………….
Độ sâu (m) |
Nhiệt độ (0C) |
Độ muối | Oxi hoà tan (% b.h) |
| Mẫu | |
Số |
Thời gian | |||||
|
|
|
|
|
|
|
Phương pháp lấy mẫu:................................................................. ……………………………
Yêu cầu phân tích……………………………………………………………………………
Ghi chú:…………………………………………………………………………………….. Người lấy mẫu:. ,......................................................................………………………………
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
[l] Berman và Yeats, lấy mẫu nước biển để phân tích vết kim loại, CRC Critical Review in
Analytical Chemistry, 16 (1), (1985)..
[2] Grasshoff, K., Ehrhardt, M. và Kremling, K., các phương pháp phân tích nước biển (XB lần thứ
2), Verlag Chemie (1983)
[3] Liss, P.S., Hoá học lớp mỏng trên mặt biển, Chemical Oceanography (XB lần thứ 2), tập 2 (
1975), trang 193 - 244, NXB J.P, Riley và G. Skirrow, London: Academic Press..
[4] Sokal, R.R. và Rohlf, F.J., Biometry. Những nguyên tắc và thực hành thống kê trong nghiên cứu
S;nh học, (1969), trang 776, NXB W.H. Freeman, San Francisco.
[5] UNESCO 9(1981), những tư liệu nén và các số liệu hỗ trợ về thang độ muối thực tế 1987
UNESCO Technical Fapers in Marin Sicence, No 37, Paris...
[6] Montgomery, H.A.C và Hart, I.c., Lập chương trình về sông và dòng thải, Water Pollution
Control 73 (1974) trang 77 - 98
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.