HÀ NỘI 2003
Lời nói đầu
Tiêu chuẩn 22 TCN 316 - 03 được biên soạn trên cơ sở Quy định ECE 17-07/S2.
Cơ quan đề nghị và biên soạn: Cục Đăng kiểm Việt Nam
Cơ quan trình duyệt: Vụ Khoa học công nghệ - Bộ Giao thông vận tải
Cơ quan xét duyệt và ban hành: Bộ Giao thông vận tải
Tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử đối với:
- ghế có lắp hoặc không lắp đệm tựa đầu và cơ cấu lắp đặt của chúng;
- các bộ phận phía sau đệm tựa lưng;
- đệm tựa đầu;
- các thiết bị dùng để bảo vệ người ngồi tránh nguy hiểm do hành lý khi có va chạm từ phía trước của ô tô con được định nghĩa trong TCVN 6211:2003 (ô tô con còn được gọi là ô tô loại M1 được định nghĩa tại mục 2.1, TCVN 6723:2000 , sau đây gọi tắt là xe) và được áp dụng trong kiểm tra chứng nhận chất lượng, an toàn kỹ thuật các kiểu loại xe cơ giới (kiểm tra chứng nhận kiểu loại xe).
Tiêu chuẩn này không áp dụng đối với các loại ghế gập, ghế quay mặt sang bên cạnh hay quay mặt lại phía sau và tất cả các đệm tựa đầu lắp vào các loại ghế này.
TCVN 6211:2003 (ISO 3833:1977) Phương tiện giao thông đường bộ - Kiểu - Thuật ngữ và định nghĩa.
TCVN 6723 : 2000 Phương tiện giao thông đường bộ - Ô tô khách cỡ nhỏ - Yêu cầu về cấu tạo trong công nhận kiểu.
TCVN 6724 : 2000 Phương tiện giao thông đường bộ - Ô tô khách cỡ lớn - Yêu cầu về cấu tạo chung trong công nhận kiểu.
TCVN 6758 : 2000 Phương tiện giao thông đường bộ - Kính an toàn và vật liệu kính an toàn - Yêu cầu và phương pháp thử trong công nhận kiểu.
ISO 6487:1987 Road vehicles - Measurement techniques in impact tests – Inrtrucmentations (Phương tiện giao thông đường bộ – Kỹ thuật đo trong thử va chạm – Dụng cụ đo)
Các thuật ngữ để áp dụng trong phạm vi của Tiêu chuẩn này được định nghĩa như sau:
3.1. Chứng nhận kiểu loại xe (Approval of vehicle): chứng nhận một kiểu loại xe phù hợp với Tiêu chuẩn này về độ cứng vững của ghế và cơ cấu lắp đặt ghế, kết cấu các bộ phận phía sau đệm tựa lưng của ghế ( sau đây gọi tắt là đệm tựa lưng ) và các đặc tính của đệm tựa đầu của ghế.
3.2. Kiểu loại xe (Vehicle Type): các xe cùng kiểu loại trong Tiêu chuẩn này gồm các xe có cùng các đặc điểm cơ bản sau đây:
3.2.1. kết cấu, hình dáng, kích thước, vật liệu và khối lượng của ghế, nhưng cho phép có thể khác nhau về lớp bọc, màu sắc và khối lượng với điều kiện là không quá 5% khối lượng của kiểu ghế đã được chứng nhận.
3.2.2. kiểu và kích thước của các cơ cấu điều chỉnh, dịch chuyển và khóa hãm của đệm tựa lưng và ghế cũng như các bộ phận của ghế.
3.2.3. kiểu và kích thước của cơ cấu lắp đặt ghế.
3.2.4. kích thước, khung, vật liệu và mặt đỡ của đệm tựa đầu, nhưng cho phép có thể khác nhau về màu sắc và lớp bọc.
3.2.5. kiểu, kích thước của các phụ kiện để lắp đệm tựa đầu (xem 3.12.3) và đặc điểm của phần kết cấu của xe để lắp loại đệm tựa đầu riêng biệt.
3.3. Ghế (Seat): kết cấu có thể liền hoặc không liền với kết cấu của xe, kèm theo các bộ phận, chi tiết để trang trí, dùng cho một người ngồi. Thuật ngữ này là cho cả ghế riêng hay một phần của ghế băng cho một người ngồi.
3.4. Ghế băng (Bench seat): kết cấu hoàn chỉnh dùng cho hai người ngồi trở lên
3.5. Cơ cấu lắp đặt ghế (Anchorage): hệ thống bảo đảm sự liên kết chắc chắn giữa ghế và kết cấu xe, kể cả các bộ phận chịu ảnh hưởng khác của kết cấu xe.
3.6. Cơ cấu điều chỉnh ghế (Adjustment system): cơ cấu cho phép điều chỉnh ghế hoặc các bộ phận của ghế cho phù hợp với hình dáng, kích thước ... của người ngồi. Cơ cấu này cho phép:
3.6.1. dịch chuyển ghế theo chiều dọc của xe;
3.6.2. dịch chuyển ghế theo chiều cao;
3.6.3. thay đổi góc ngồi.
3.7. Cơ cấu dịch chuyển ghế (Displacement system): cơ cấu cho phép ghế hoặc một trong các bộ phận của ghế có thể dịch chuyển và/hoặc xoay (không có vị trí trung gian cố định) để dễ dàng đi vào phía sau ghế đó.
3.8. Cơ cấu khóa hãm (Locking system): cơ cấu bảo đảm giữ được ghế và các bộ phận của ghế ở vị trí sử dụng.
3.9. Ghế gập (Folding seat): ghế phụ không sử dụng thường xuyên và thường được gập lại.
3.10. Mặt phẳng ngang (Transverse plane): mặt phẳng thẳng đứng vuông góc với mặt phẳng trung tuyến dọc xe.
3.11. Mặt phẳng dọc ( Longitudinal plane): mặt phẳng song song với mặt phẳng trung tuyến dọc xe.
3.12. Đệm tựa đầu (Head restraint): cơ cấu có chức năng hạn chế sự chuyển dịch về phía sau của đầu so với thân người để giảm mức độ nguy hiểm của chấn thương cho các đốt sống cổ của người ngồi trên xe khi xảy ra tai nạn.
3.12.1. Đệm tựa đầu liền (Integrated head restraint): đệm tựa đầu được tạo thành bởi phần trên của đệm tựa lưng. Loại đệm tựa đầu phù hợp với các định nghĩa tại các mục 3.12.2 và 3.12.3 nhưng chỉ tháo được khỏi ghế hoặc kết cấu của xe bằng các dụng cụ hoặc bằng cách tháo từng phần hoặc toàn bộ ghế cũng được coi là đệm tựa đầu liền.
3.12.2. Đệm tựa đầu tháo được (Detachable head restraint): loại đệm tựa đầu được tạo thành bởi một bộ phận có thể tháo rời khỏi ghế, được thiết kế để lắp lồng vào và/hoặc được giữ chặt với kết cấu đệm tựa lưng.
3.12.3. Đệm tựa đầu riêng biệt (Separate head restraint): loại đệm tựa đầu được tạo thành bởi một bộ phận tách rời với ghế, được thiết kế để lắp lồng vào và/hoặc được giữ chặt với kết cấu của xe.
3.13. Điểm R hay điểm ngồi chuẩn (R point or seating reference point): điểm thiết kế do nhà sản xuất qui định cho từng chỗ ngồi và được xác định trong hệ tọa độ 3 chiều.
3.14. Đường chuẩn (Reference line): đường trên mô hình cho tại hình 1.1, phụ lục 1 của Tiêu chuẩn này.
3.15. Vách ngăn (Partitioning System): các bộ phận hoặc thiết bị, trừ đệm tựa lưng, dùng để bảo vệ người ngồi tránh nguy hiểm do hành lý dịch chuyển. Vách ngăn có thể được cấu tạo bằng lưới liền hay lưới đan được đặt phía trên đệm tựa lưng ở vị trí thẳng đứng hay ở vị trí gập xuống. Đối với xe có lắp vách ngăn, đệm tựa đầu được lắp trên xe như là thiết bị tiêu chuẩn phải được coi như một phần của vách ngăn. Tuy nhiên, ghế có lắp đệm tựa đầu sẽ không được coi là có vách ngăn của riêng ghế đó.
4. Tài liệu kỹ thuật và mẫu thử
4.1. Tài liệu kỹ thuật
4.1.1. Tài liệu mô tả chi tiết về kết cấu ghế, cơ cấu lắp đặt ghế, cơ cấu điều chỉnh, cơ cấu dịch chuyển và cơ cấu khoá hãm
Bản mô tả chi tiết và/hoặc các bản vẽ vách ngăn, nếu có
4.1.2. Các bản vẽ của các ghế, cơ cấu lắp đặt ghế, cơ cấu điều chỉnh, cơ cấu dịch chuyển, cơ cấu khoá hãm của ghế ở tỉ lệ và mức độ chi tiết cần thiết.
4.1.3. Trường hợp đệm tựa đầu tháo được:
Bản mô tả chi tiết của đệm tựa đầu, nêu rõ vật liệu của mặt đỡ
Bản mô tả chi tiết vị trí lắp, kiểu giá đỡ và các chi tiết để lắp đệm tựa đầu lên ghế
4.1.4. Trường hợp đệm tựa đầu riêng biệt:
4.1.4.1. bản mô tả chi tiết của đệm tựa đầu, nêu rõ vật liệu của mặt đỡ;
4.1.4.2. bản mô tả chi tiết vị trí lắp và các chi tiết để lắp đệm tựa đầu lên kết cấu của xe.
4.2. Mẫu thử
4.2.1. Một xe mẫu đại diện cho kiểu loại xe hoặc các bộ phận của xe cần để kiểm tra chứng nhận kiểu loại xe theo Tiêu chuẩn này.
4.2.2. Một bộ ghế để trang bị cho xe theo thiết kế kèm theo cơ cấu lắp đặt ghế để lắp trên xe.
4.2.3. Đối với những xe mà ghế có lắp hoặc có thể lắp đệm tựa đầu thì ngoài các yêu cầu nêu ở mục
4.2.1 và mục 4.2.2 phải có thêm các mẫu sau :
4.2.3.1. Trường hợp đệm tựa đầu tháo được: thêm một bộ ghế có lắp đệm tựa đầu để trang bị cho xe theo thiết kế kèm theo cơ cấu lắp đặt ghế để lắp trên xe.
4.2.3.2. Trường hợp đệm tựa đầu riêng biệt:
- thêm một bộ ghế để trang bị cho xe theo thiết kế kèm theo cơ cấu lắp đặt ghế để lắp trên xe.
- thêm một bộ đệm tựa đầu tương ứng và bộ phận của kết cấu xe để lắp đệm tựa đầu, hoặc một kết cấu hoàn chỉnh
5.1 Yêu cầu chung cho tất cả các loại ghế
5.1.1. Mọi cơ cấu điều chỉnh và dịch chuyển phải có cơ cấu khóa hãm bảo đảm tự hãm được. Bộ phận để tay hoặc các bộ phận tiện nghi khác không cần cơ cấu khóa hãm nếu các bộ phận này sẽ không gây thêm chấn thương cho người ngồi khi xe bị va chạm.
5.1.2. Cơ cấu mở khóa hãm của cơ cấu dịch chuyển phải được đặt ở bên cạnh ghế phía gần với cửa và phải dễ dàng sử dụng, thậm chí đối với cả người ngồi ở ghế ngay phía sau.
5.1.3. Các phần phía sau của ghế nằm trong vùng 1 (vùng 1 được xác định trong mục 6.8.1.1) phải thoả mãn các yêu cầu thử nghiệm hấp thụ năng lượng được qui định trong phụ lục 3.
5.1.3.1. Yêu cầu thử nghiệm hấp thụ năng lượng được coi là thoả mãn nếu trong thời gian liên tục hơn 3ms gia tốc của đầu giả không vượt quá 80g (g là gia tốc trọng trường) khi thực hiện phép thử theo quy trình mô tả trong phụ lục 3. Không được có các gờ cạnh nguy hiểm nào xuất hiện trong quá trình thử hoặc còn lại sau khi thử.
5.1.3.2. Các yêu cầu của mục 5.1.3 không áp dụng cho các ghế sau cùng hoặc các ghế lưng tựa vào nhau.
5.1.4. Bề mặt của các phần phía sau của ghế không được có những phần nhô hay các gờ cạnh sắc dễ làm tăng khả năng gây chấn thương cho người ngồi. Yêu cầu này được coi là thoả mãn nếu bề mặt của các phần phía sau của ghế được thử nghiệm theo các qui định trong mục 6.1 có bán kính của góc lượn không nhỏ hơn :
2,5 mm ở vùng 1.
5,0 mm ở vùng 2.
3,2 mm ở vùng 3.
Các vùng này được xác định ở mục 6.8.1.
5.1.4.1. Yêu cầu này không áp dụng cho các ghế, bộ phận sau :
5.1.4.1.1. Các bộ phận của các vùng khác nhau có phần nhô ra nhỏ hơn 3,2 mm so với bề mặt xung quanh, có các cạnh được làm tròn và chiều cao của phần nhô không lớn hơn 1/2 chiều rộng của nó;
5.1.4.1.2. Các ghế sau cùng và các ghế lưng tựa vào nhau;
5.1.4.1.3. Các bộ phận phía sau của các ghế thấp hơn mặt phẳng nằm ngang đi qua điểm R thấp nhất ở mỗi hàng ghế (nếu các hàng ghế có chiều cao khác nhau, bắt đầu từ đằng sau, mặt phẳng này phải được quay lên hoặc quay xuống tạo thành bậc thẳng đứng đi qua điểm R của hàng ghế ngay phía trước).
5.1.4.1.4. Các bộ phận tương tự “tấm lưới thép mềm dẻo, co giãn được”.
5.1.4.2. Trong vùng 2, các bề mặt có thể có các bán kính nhỏ hơn 5 mm, nhưng không được nhỏ hơn 2,5 mm với điều kiện chúng thỏa mãn yêu cầu thử nghiệm hấp thụ năng lượng mô tả trong phụ lục 4. Ngoài ra các bề mặt này phải có lớp đệm để tránh tiếp xúc trực tiếp của đầu với khung ghế.
5.1.4.3.Nếu các vùng được xác định ở trên có các bộ phận được bọc lớp vật liệu có độ cứng nhỏ hơn 50 shore A thì các yêu cầu ở trên chỉ áp dụng đối với các bộ phận cứng, trừ những yêu cầu liên quan đến thử nghiệm hấp thụ năng lượng qui định trong phụ lục 4.
5.1.5. Không được phép có hư hỏng ở khung ghế, cơ cấu lắp đặt ghế, cơ cấu điều chỉnh, cơ cấu dịch chuyển và các thiết bị khóa hãm của chúng trong quá trình thử nghiệm hoặc sau khi thử nghiệm như được mô tả ở mục 6.2 và 6.3. Các biến dạng, kể cả các rạn vỡ, có thể được chấp nhận với điều kiện chúng không làm tăng các khả năng chấn thương trong trường hợp xảy ra va chạm và vẫn chịu được tải trọng qui định.
5.1.6. Cơ cấu khóa hãm không được tự mở trong quá trình thử nghiệm được mô tả trong mục 6.3 của
Tiêu chuẩn này và mục 6.2.4 của phụ lục 7.
5.1.7. Sau khi thử, các cơ cấu dịch chuyển phải làm việc bình thường. Chúng phải có khả năng mở được khóa hãm và dịch chuyển được ghế hoặc một bộ phận của ghế ít nhất một lần.
Mọi cơ cấu dịch chuyển khác với cơ cấu được định nghĩa tại 3.7 của Tiêu chuẩn này, cũng như các cơ cấu điều chỉnh và các cơ cấu khóa hãm của chúng không yêu cầu phải làm việc bình thường.
Đối với các ghế có đệm tựa đầu, độ cứng vững của đệm tựa lưng và cơ cấu khóa hãm của chúng được coi là thỏa mãn các yêu cầu nêu tại mục 6.2 nếu sau khi thử nghiệm theo qui định trong mục 6.4.3.6 ghế hoặc đệm tựa lưng phải đáp ứng được các yêu cầu thử nghiệm nêu trong mục 6.2.
Đối với các ghế băng mà số chỗ ngồi nhiều hơn số đệm tựa đầu, phải thực hiện các thử nghiệm nêu trong mục 6.2.
5.2. Các yêu cầu chung có thể áp dung cho các ghế của phương tiện loại N1, N2 và N3 và cho các ghế của phương tiện loại M2 và M3 loại I trong tiêu chuẩn TCVN 6724 – 2000 (ECE 36-03) và loại A trong tiêu chuẩn TCVN 6723 – 2000 (ECE52-01)(1).
5.2.1. Các ghế và ghế băng phải được lắp chắc chắn trên phương tiện.
5.2.2. Các ghế trượt và ghế băng phải có thể tự động khoá được ở mọi vị trí thiết kế.
5.2.3. Các đệm tựa lưng có thể điều chỉnh được phải có thể hãm được ở mọi vị trí thiết kế.
5.2.4. Các ghế có thể lật về trước hoặc gập được đệm tựa lưng phải tự động khoá được ở vị trí thông thường.
Chú thích: (1) Đối với mục đích của Tiêu chuẩn này, yêu cầu nêu trong mục này chỉ để cung cấp thông tin
5.3. Lắp đệm tựa đầu
Đệm tựa đầu phải được lắp trên các ghế bên ngoài phía trước. Các ghế có lắp đệm tựa đầu được sử dụng để lắp cho các chỗ ngồi khác và của loại phương tiện khác cũng có thể áp dụng các yêu cầu của Tiêu chuẩn này.
5.4. Yêu cầu riêng cho các ghế được lắp hoặc có thể sẽ lắp đệm tựa đầu
5.4.1. Đệm tựa đầu, nếu có, không được làm tăng sự nguy hiểm đối với người ngồi. Đặc biệt trong mọi vị trí sử dụng, chúng không được có các phần nhô, các gờ sắc nhọn nguy hiểm có khả năng làm tăng nguy cơ hay tăng mức độ thương tích cho người ngồi.
5.4.2. Các bộ phận của mặt trước và sau của các đệm tựa đầu ở vùng 1 phải được thử nghiệm hấp thụ năng lượng.
5.4.2.1.Như mục 5.1.3.1.
5.4.3. Các bộ phận của mặt trước và sau của các đệm tựa đầu nằm trong vùng 2 phải được bọc đệm để tránh sự tiếp xúc trực tiếp của đầu với các bộ phận của khung ghế và phải thoả mãn các yêu cầu tại mục 5.1.4 ở trên áp dụng cho các phần phía sau của ghế nằm ở vùng 2.
5.4.4. Không áp dụng các yêu cầu nêu trong mục 5.4.2 và 5.4.3 ở trên cho các bộ phận của mặt sau đệm tựa đầu được thiết kế để lắp cho các ghế mà phía sau chúng không có ghế nào khác.
5.4.5. Đệm tựa đầu phải đảm bảo cho ghế hay kết cấu xe không được có các bộ phận cứng và nguy hiểm nhô lên khỏi đệm lót của đệm tựa đầu hay nhô ra từ bộ phận gá lắp vào đệm tựa lưng của chúng do áp lực của đầu giả trong quá trình thử nghiệm.
5.4.6. Trong trường hợp ghế được lắp đệm tựa đầu, nếu có sự chấp thuận của cơ sở thử nghiệm thì các quy định của mục 5.1.3 có thể được coi là thoả mãn nếu ghế được lắp cùng với đệm tựa đầu của nó phù hợp với các quy định của mục 5.4.2 ở trên.
5.5. Chiều cao của đệm tựa đầu
Chiều cao của đệm tựa đầu phải thoả mãn các yêu cầu sau :
5.5.1. Chiều cao của đệm tựa đầu được xác định theo mục 6.5.
5.5.2. Đối với các đệm tựa đầu không điều chỉnh được chiều cao thì chiều cao của đệm tựa đầu không được nhỏ hơn 800 mm cho các ghế thuộc hàng ghế đầu tiên (sau đây gọi là ghế trước) và không được nhỏ hơn 750 mm đối với các ghế không thuộc hàng ghế đầu tiên (sau đây gọi là ghế sau).
5.5.3. Đối với đệm tựa đầu có thể điều chỉnh được chiều cao:
5.5.3.1.Chiều cao của đệm tựa đầu của vị trí ở giữa vị trí cao nhất và vị trí thấp nhất có thể điều chỉnh được không nhỏ hơn 800 mm đối với ghế trước và không nhỏ hơn 750 mm đối với ghế sau;
5.5.3.2. Không có vị trí sử dụng nào của đệm tựa đầu có chiều cao nhỏ hơn 750 mm.
5.5.3.3. Đối với ghế sau, có thể cho phép điều chỉnh đệm tựa đầu tới vị trí có độ cao nhỏ hơn 750 mm miễn là người ngồi có thể nhận biết được rõ ràng vị trí này và không nằm trong vị trí sử dụng của đệm tựa đầu.
5.5.3.4.Đối với ghế trước, đệm tựa đầu có thể tự động dịch chuyển tới vị trí có chiều cao 750 mm khi không có người ngồi, miễn là chúng phải tự động trở lại vị trí sử dụng khi có người ngồi.
5.5.4. Các kích thước qui định tại mục 5.5.2 và 5.5.3.1 ở trên có thể nhỏ hơn 800 mm đối với ghế trước và nhỏ hơn 750 mm đối với ghế sau để có được khoảng trống phù hợp giữa đệm tựa đầu với trần xe, các cửa sổ hay các bộ phận khác của xe; tuy nhiên, khoảng trống này không được lớn hơn 5 mm. Trong trường hợp các ghế có lắp cơ cấu dịch chuyển và/hoặc cơ cấu điều chỉnh thì yêu cầu này phải áp dụng cho tất cả các chỗ ngồi. Ngoài ra, không được có bất kỳ chỗ sử dụng nào có chiều cao nhỏ hơn 700 mm.
5.5.5. Đối với các ghế hoặc chỗ ngồi sau ở giữa có lắp đệm tựa đầu, chiều cao của bất kỳ đệm tựa đầu nào được thiết kế và cung cấp cho chúng phải nhỏ hơn 700 mm.
5.6. Ghế có thể lắp đệm tựa đầu phải áp dụng các quy định nêu trong mục 5.1.3 và 5.4.2 ở trên.
5.6.1. Đối với đệm tựa đầu điều chỉnh được chiều cao, chiều cao của bộ phận sẽ lắp đệm tựa đầu, được xác định theo phương pháp qui định tại mục 6.5, không được nhỏ hơn 100 mm.
5.7. Đối với đệm tựa đầu không điều chỉnh được chiều cao, khe hở giữa đệm tựa lưng và đệm tựa đầu không được lớn hơn 60 mm.
Đối với đệm tựa đầu điều chỉnh được chiều cao, khe hở giữa đệm tựa lưng và đệm tựa đầu không được lớn hơn 25 mm ( khe hở này được đo từ vị trí thấp nhất mà đệm tựa đầu có thể điều chỉnh được tới điểm cao nhất của đệm tựa lưng).
Đối với các ghế hoặc ghế băng điều chỉnh được chiều cao và có đệm tựa đầu riêng biệt thì yêu cầu này phải được kiểm tra ở tất cả các vị trí điều chỉnh.
5.8. Đối với đệm tựa đầu liền, khu vực được xét đến là:
- phía trên mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn và cách điểm R một khoảng 540 mm.
- giữa hai mặt phẳng dọc thẳng đứng cách đường chuẩn 85 mm. Trong khu vực này cho phép một hoặc nhiều lỗ hổng (bất kể hình dạng nào) có khoảng cách "a" lớn hơn 60 mm (a được đo như mô tả trong mục 6.7), với điều kiện là các yêu cầu của mục 5.11 vẫn được thoả mãn sau khi thử bổ sung theo mục 6.4.3.3.2.
5.9. Trong trường hợp đệm tựa đầu có thể điều chỉnh được độ cao, cho phép có một hoặc nhiều lỗ hổng (bất kể hình dạng nào) có khoảng cách "a" lớn hơn 60 mm, với điều kiện là các yêu cầu tại mục 6.9 vẫn được thoả mãn sau khi thử bổ sung theo mục 6.4.3.3.2.
5.10. Chiều rộng của đệm tựa đầu phải phù hợp với đầu người khi ngồi bình thường. Đệm tựa đầu phải chứa được một diện tích có đường biên cách mặt phẳng đối xứng của ghế không nhỏ hơn 85 mm về mỗi bên, khoảng cách đó được xác định như mô tả tại 6.6.
5.11. Đệm tựa đầu và cơ cấu lắp đặt đệm tựa đầu phải đảm bảo rằng khoảng dịch chuyển X về phía sau lớn nhất của đầu nhỏ hơn 102 mm khi đo theo phương pháp quy định tại 6.4.3.
5.12. Đệm tựa đầu và cơ cấu lắp đặt đệm tựa đầu phải đủ cứng vững và không bị hư hỏng khi chịu tải trọng qui định tại mục 6.4.3.6. Đối với đệm tựa đầu liền thì phần kết cấu của đệm tựa lưng nằm phía trên mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn và cách điểm R một khoảng 540 mm phải thoả mãn yêu cầu này.
5.13. Đối với đệm tựa đầu điều chỉnh được, chiều cao của đệm tựa đầu khi điều chỉnh không được lớn hơn chiều cao sử dụng lớn nhất trừ trường hợp việc điều chỉnh của người sử dụng khác với hướng dẫn sử dụng.
5.14. Độ cứng vững của đệm tựa lưng và các thiết bị khóa hãm của đệm tựa lưng được coi là thỏa mãn các yâu cầu ở mục 6.2 nếu sau khi thử nghiệm theo mục 6.4.3.6, ghế hoặc đệm tựa lưng không có các hư hỏng. Ngoài ra ghế phải thoả mãn các yêu cầu thử nghiệm nêu trong mục 6.2.
5.15. Các yêu cầu riêng về bảo vệ người ngồi đối với sự dịch chuyển của hành lý
5.15.1. Đệm tựa lưng
Đối với đệm tựa lưng và/hoặc đệm tựa đầu được lắp đặt sao cho chúng tạo thành ranh giới phía trước của khoang hành lý, các ghế ở đúng chỗ tại vị trí sử dụng thông thường theo chỉ dẫn của nhà sản xuất phải có đủ độ cứng vững để bảo vệ cho người ngồi khi có sự dịch chuyển của hành lý do xe bị va chạm từ phía trước. Yêu cầu này được coi là thoả mãn nếu sau khi thử nghiệm, như mô tả trong phụ lục 6, các đệm tựa lưng vẫn ở đúng vị trí đó và các cơ cấu khoá hãm không bị nhả. Tuy nhiên, cho phép có sự biến dạng của các đệm tựa lưng và các bộ phận giữ chặt chúng trong quá trình thử nghiệm, với điều kiện đường bao phía trước của các bộ phận của đệm tựa lưng và/hoặc đệm tựa đầu thử nghiệm có độ cứng lớn hơn 50 shore A không được dịch chuyển về phía trước mặt phẳng ngang, thẳng đứng đi qua các điểm sau :
(a) Đối với các bộ phận của đệm tựa đầu: cách điểm R của ghế 150 mm về phía trước;
(b) Đối với các bộ phận của đệm tựa lưng: cách điểm R của ghế 100 mm về phía trước; không kể những lúc khối thử nghiệm bị nẩy lên.
Đối với các đệm tựa đầu liền thì ranh giới giữa đệm tựa đầu và đệm tựa lưng được xác định bởi mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn và cách điểm R một khoảng bằng 540 mm.
Tất cả các phép đo nêu trên được thực hiện trên mặt phẳng trung tuyến dọc của ghế hoặc chỗ ngồi tương ứng với từng chỗ ngồi của ghế tạo nên đường ranh giới phía trước của khoang hành lý.
Trong quá trình thử nghiệm được mô tả ở phụ lục 7, khối thử nghiệm vẫn phải ở phía sau các đệm tựa lưng.
5.15.2. Vách ngăn
Theo yêu cầu của nhà sản xuất, thử nghiệm được qui định tại phụ lục 6 có thể được thực hiện với xe có lắp vách ngăn nếu vách ngăn này là trang bị tiêu chuẩn của xe.
Vách ngăn có lưới đan được đặt ở vị trí sử dụng thông thường phía trên đệm tựa lưng phải được thử theo mục 6.2.2 của phụ lục 7 .
Yêu cầu này được coi là thoả mãn nếu trong quá trình thử nghiệm vách ngăn vẫn giữ nguyên vị trí. Tuy nhiên, cho phép có sự biến dạng của vách ngăn trong quá trình thử, với điều kiện đường bao phía trước của vách ngăn (bao gồm các bộ phận của đệm tựa lưng và/hoặc đệm tựa đầu) có độ cứng lớn hơn 50 Shore A không được dịch chuyển về phía trước mặt phẳng ngang, thẳng đứng đi qua các điểm sau :
(a) Đối với các bộ phận của đệm tựa đầu : cách điểm R của ghế 150 mm về phía trước;
(b) Đối với các bộ phận của đệm tựa lưng: cách điểm R của ghế 100 mm về phía trước;
Đối với đệm tựa đầu liền thì ranh giới giữa đệm tựa đầu và đệm tựa lưng được xác định trong mục 5.15.1.
Tất cả các phép đo được thực hiện trên mặt phẳng trung tuyến dọc của ghế tương ứng hoặc từng chỗ ngồi của ghế tạo nên đường ranh giới phía trước của khoang hành lý.
Sau khi thử nghiệm, không được có các gờ sắc nhọn có khả năng tăng nguy hiểm và mức độ của các chấn thương cho người ngồi.
5.15.3. Các yêu cầu nêu ở mục 5.15.1 và 5.15.2 ở trên không áp dụng cho hệ thống tự động giữ chặt hành lý khi có va chạm. Trong trường hợp này nhà sản xuất phải chứng minh được sự bảo vệ của hệ thống đó là tương đương với hệ thống đựơc mô tả trong mục 5.15.1 và mục 5.15.2.
6.1. Yêu cầu chung đối với tất cả các phép thử
6.1.1. Trừ khi nhà sản xuất có qui định khác, đệm tựa lưng điều chỉnh được phải được khóa hãm tại vị trí nghiêng về phía sau một góc, góc này có giá trị gần 250 nhất có thể được so với phương thẳng đứng của đường chuẩn thân ma-nơ-canh được nêu tại phụ lục 1.
6.1.2. Khi một ghế có cơ cấu khóa hãm và việc lắp đặt ghế giống hoặc đối xứng với một ghế khác ở trên xe thì chỉ cần thử nghiệm một ghế đó.
6.1.3. Đối với các ghế có đệm tựa đầu điều chỉnh được thì khi thử nghiệm, đệm tựa đầu phải được điều chỉnh đến vị trí bất lợi nhất (thường là vị trí cao nhất).
6.2. Thử nghiệm độ cứng vững của đệm tựa lưng và cơ cấu điều chỉnh đệm tựa lưng
6.2.1. Đặt một lực dọc hướng về phía sau vào phần phía trên của khung đệm tựa lưng thông qua bộ phận mô phỏng lưng của ma-nơ-canh nêu tại phụ lục 1 để tạo ra một mômen bằng 53 daNm đối với điểm R. Đối với ghế băng có một phần hoặc toàn bộ khung chịu lực (bao gồm cả khung của đệm tựa đầu) sử dụng chung cho hai chỗ ngồi trở lên thì phải thử nghiệm đồng thời cho tất cả các chỗ ngồi đó.
6.3. Thử nghiệm độ cứng vững của cơ cấu lắp đặt và điều chỉnh ghế, cơ cấu khóa hãm và dịch chuyển
6.3.1. Toàn bộ vỏ xe phải được chuyển động về phía trước theo phương nằm ngang với gia tốc âm không nhỏ hơn 20g (g là gia tốc trọng trường) trong 30 s, tương ứng với các yêu cầu nêu tại mục 1, phụ lục 5. Nếu nhà sản xuất yêu cầu, có thể thay thế bằng phép thử nêu trong phụ lục 7.
6.3.2. áp dụng các yêu cầu của mục 6.3.1 trên với vỏ xe chuyển động về phía sau.
6.3.3. Phải tiến hành thử đối với tất cả các chỗ ngồi theo các yêu cầu của mục 6.3.1 và 6.3.2 trên. Đối với các ghế có đệm tựa đầu điều chỉnh được thì phép thử phải thực hiện với đệm tựa đầu được điều chỉnh đến vị trí bất lợi nhất (thông thường là vị trí cao nhất) mà cơ cấu điều chỉnh của nó cho phép. Trong quá trình thử nghiệm, ghế phải được đặt ở vị trí sao cho không bị ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài để tránh sự mở khóa của cơ cấu khóa hãm.
Các điều kiện này được coi là thoả mãn nếu ghế được thử sau khi đã điều chỉnh trong các vị trí sau:
Điều chỉnh dọc được cố định ở vị trí có một dấu chữ V hoặc cách vị trí lái thông thường được điều chỉnh hết về phía trước hoặc vị trí sử dụng do nhà sản xuất qui định về phía sau 10 mm (đối với các ghế có cơ cấu điều chỉnh thẳng đứng độc lập thì đệm ngồi phải được đặt ở vị trí cao nhất);
Điều chỉnh dọc được cố định ở vị trí có một dấu chữ V hoặc cách vị trí lái thông thường được điều chỉnh hết về phía sau hoặc vị trí sử dụng do nhà sản xuất qui định về phía trước 10 mm (đối với ghế có cơ cấu điều chỉnh thẳng đứng độc lập thì đệm ngồi phải được đặt ở vị trí thấp nhất), và nếu có thể thì điều chỉnh vị trí đó phù hợp với các yêu cầu ở mục 6.3.4.
6.3.4. Trong các trường hợp khi sự bố trí các cơ cấu khóa hãm theo một cách, mà ở một vị trí ngồi khác với các vị trí nêu tại mục 6.3.3, phân bố lực trên các thiết bị khóa hãm và cơ cấu lắp đặt ghế bất lợi hơn so với 2 vị trí được nêu tại mục 6.3.3 thì phép thử phải được thực hiện tại vị trí bất lợi hơn này.
6.3.5. Các điều kiện thử nghiệm ở mục 6.3.1 được coi là thoả mãn nếu, theo yêu cầu của nhà sản xuất, chúng được thay bằng một thử nghiệm cho xe hoàn chỉnh chạy đâm vào vật cản cứng như nêu tại mục 4.2, phụ lục 5. Trong trường hợp này, ghế phải được điều chỉnh tạo ra điều kiện bất lợi nhất về mặt phân bố các lực lên cơ cấu lắp đặt ghế được nêu tại mục 6.1.1, 6.3.3 và 6.3.4.
6.4. Thử nghiệm đặc tính của đệm tựa đầu
6.4.1. Nếu đệm tựa đầu điều chỉnh được thì nó được điều chỉnh ở vị trí bất lợi nhất (thông thường là vị trí cao nhất) mà cơ cấu điều chỉnh của nó cho phép.
6.4.2. Đối với ghế băng mà một phần hay toàn bộ khung chịu lực (bao gồm cả khung của đệm tựa đầu) được sử dụng chung cho nhiều chỗ ngồi thì thử nghiệm phải được thực hiện đồng thời cho tất cả các chỗ ngồi của nó.
6.4.3. Thử nghiệm
6.4.3.1. Tất cả các đường, bao gồm cả các hình chiếu của đường chuẩn, phải được vẽ trên mặt phẳng đối xứng dọc của ghế hoặc của các chỗ ngồi (xem phụ lục 3).
6.4.3.2. Đường chuẩn thay thế được xác định bằng cách tác dụng một lực ban đầu vào lưng của ma-nơ- canh (được nêu tại phụ lục 1) để tạo ra một mômen 37,3 daNm và hướng về phía sau đối với điểm R.
6.4.3.3. Sử dụng đầu giả hình cầu có đường kính 165 mm tạo một lực ban đầu có mômen 37,3 daNm đối với điểm R, lực này vuông góc với đường chuẩn thay thế và cách phía dưới điểm cao nhất của đệm tựa đầu 65 mm, đường chuẩn được giữ ở vị trí thay thế của nó theo mục 6.4.3.2.
6.4.3.3.1. Nếu đệm tựa đầu có lỗ hổng gây ảnh hưởng đến việc đặt lực như đã nêu tại 6.4.3.3, thì khoảng cách 65mm nêu trên có thể được giảm xuống sao cho trục của lực đi qua đường tâm của phần khung gần lỗ hổng nhất.
6.4.3.3.2. Trong các trường hợp nêu trong mục 5.8 và 5.9 thì thử nghiệm phải được thực hiện lặp lại cho mỗi lỗ hổng bằng cách sử dụng một quả cầu đường kính 165mm để tạo ra một lực đi qua trọng tâm tiết diện nhỏ nhất của lỗ hổng và dọc theo mặt phẳng ngang song song với đường chuẩn, lực này phải tạo ra một mômen 37,3 daNm đối với điểm R.
6.4.3.4. Đường Y tiếp tuyến với đầu giả hình cầu và song song với đường chuẩn thay thế được xác định.
6.4.3.5. Đo khoảng cách X (nêu tại mục 5.11) giữa tiếp tuyến Y và đường chuẩn thay thế.
6.4.3.6. Kiểm tra hiệu quả của đệm tựa đầu bằng cách tăng tải trọng ban đầu, như được nêu tại mục
6.4.3.3 và 6.4.3.3.2, lên đến 89 daN nếu ghế hoặc đệm tựa lưng không bị gãy trước.
6.5. Xác định chiều cao của đệm tựa đầu
6.5.1. Tất cả các đường, bao gồm cả hình chiếu của đường chuẩn, phải được vẽ trong mặt phẳng đối xứng dọc của ghế hoặc của chỗ ngồi, giao tuyến của mặt phẳng đó với ghế định rõ đường bao của đệm tựa đầu và đệm tựa lưng (xem hình 1.2, phụ lục 2 ).
6.5.2. Ma-nơ-canh được đặt ở vị trí ngồi bình thường trên ghế.
6.5.3. Hình chiếu của đường chuẩn của ma-nơ-canh trên ghế đang xét được vẽ trên mặt phẳng nêu tại mục 6.4.3.1.
Vẽ đường S tiếp tuyến với đỉnh của đệm tựa đầu và vuông góc với đường chuẩn.
6.5.4. Khoảng cách "h" từ điểm R đến tiếp tuyến S là độ cao được xem xét trong việc thực hiện các yêu cầu nêu tại mục 5.5.
6.6. Xác định chiều rộng của đệm tựa đầu
(Xem hình 2.2 của phụ lục 2).
6.6.1. Mặt phẳng S1 vuông góc với đường chuẩn, nằm phía dưới đường tiếp tuyến S (được xác định ở mục 6.5.3) là 65 mm xác định một mặt cắt của đệm tựa đầu, mặt cắt C.
6.6.2. Chiều rộng của đệm tựa đầu có xét đến việc thực hiện các yêu cầu của mục 5.8 trên là khoảng cách "L" giữa các mặt phẳng dọc thẳng đứng P và P', được đo trên mặt phẳng S1.
6.6.3. Nếu cần thiết, chiều rộng của đệm tựa đầu cũng phải được xác định trên mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn và cách điểm R của ghế về phía trên 635 mm, khoảng cách này được đo dọc theo đường chuẩn.
6.7. Xác định khoảng cách "a" của các lỗ hổng của đệm tựa đầu
(Xem phụ lục 6).
6.7.1. Xác định khoảng cách "a" cho mỗi lỗ hổng đối với mặt trước của đệm tựa đầu bằng quả cầu có đường kính 165 mm.
6.7.2. Đặt quả cầu sao cho nó tiếp xúc tối đa với lỗ hổng nhưng không được tác động ngoại lực lên quả cầu.
6.7.3. Khoảng cách "a" là khoảng cách giữa hai điểm tiếp xúc của quả cầu với lỗ hổng, khoảng cách này phải thoả mãn các quy định nêu tại mục 5.8 và 5.9.
6.8. Thử nghiệm sự hấp thụ năng lượng trên đệm tựa lưng và đệm tựa đầu (xem phụ lục 4)
6.8.1. Các bề mặt của các phần phía sau của các ghế được kiểm tra là các bề mặt nằm trong các vùng được xác định dưới đây, các vùng này có thể tiếp xúc được với một quả cầu đường kính 165 mm khi lắp ghế trên xe.
6.8.1.1. Vùng 1
6.8.1.1.1. Đối với các ghế rời không có đệm tựa đầu, vùng này là vùng:
- ở sau đệm tựa lưng và nằm giữa hai mặt phẳng dọc thẳng đứng và cách mặt phẳng trung tuyến dọc của ghế 100 mm về hai phía;
- ở phía trên mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn tại điểm thấp hơn điểm cao nhất của đệm tựa lưng 100 mm.
6.8.1.1.2. Đối với các ghế băng không có đệm tựa đầu, vùng này là vùng:
- ở giữa hai mặt phẳng dọc thẳng đứng và cách mặt phẳng trung tuyến dọc của mỗi vị trí ngồi phía ngoài (do nhà sản xuất qui định) 100 mm về hai phía;
- ở phía trên một mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn tại điểm thấp hơn điểm cao nhất của đệm tựa lưng 100 mm.
6.8.1.1.3. Đối với các ghế hay các ghế băng có đệm tựa đầu, vùng này là vùng:
- ở giữa hai mặt phẳng dọc thẳng đứng và cách mặt phẳng trung tuyến dọc của ghế hoặc chỗ ngồi đang xét 70mm về hai phía;
- ở phía trên mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn tại điểm cách điểm R một khoảng 635mm.
Nếu đệm tựa đầu điều chỉnh được thì phải điều chỉnh đến vị trí bất lợi nhất (thông thường là vị trí cao nhất) trong khi tiến hành thử nghiệm
6.8.1.2. Vùng 2
6.8.1.2.1. Đối với các ghế không có đệm tựa đầu và các ghế có đệm tựa đầu tháo được hoặc có đệm tựa đầu riêng biệt thì vùng 2 là vùng:
- ở phía trên mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn tại điểm cách điểm cao nhất của đệm tựa lưng 100 mm; và
- không phải là vùng 1.
6.8.1.2.2. Đối với các ghế có đệm tựa đầu liền thì vùng 2 là vùng:
- ở phía trên mặt phẳng vuông góc với đường chuẩn tại điểm cách điểm R của ghế hoặc chỗ ngồi 440 mm; và
- không phải là vùng 1.
6.8.1.3. Vùng 3
6.8.1.3.1. Vùng 3 được xác định như là một phần lưng của ghế hoặc ghế băng ở phía trên các mặt phẳng nằm ngang được nêu tại mục 5.1.4.1.3 nhưng không nằm trong Vùng 1 và Vùng 2.
6.9. Các phương pháp thử nghiệm tương đương
Nếu áp dụng phương pháp thử khác với phương pháp thử nêu trong mục 6.2, 6.3, 6.4 và trong phụ lục 4 thì phải chứng minh phương pháp đó tương đương với các phương pháp nêu trên.
7. Yêu cầu kỹ thuật đối với sản phẩm cùng kiểu loại trong sản xuất
7.1. Tất cả các xe thuộc kiểu loại xe đã được cấp chứng nhận kiểu loại theo Tiêu chuẩn này và được sản xuất tiếp theo phải phù hợp với các yêu cầu kỹ thuật nêu tại mục 6 ở trên.
Riêng đối với đệm tựa đầu riêng biệt và đệm tựa đầu tháo được, tất cả các xe, kể cả xe đã được chào hàng đều được coi là thoả mãn yêu cầu kỹ thuật.
7.2. Để kiểm tra sự phù hợp của xe trong sản xuất với Tiêu chuẩn này theo mục 7.1.ở trên, cần phải thực hiện việc kiểm tra xác xuất đối với các lô xe được sản xuất, theo các yêu cầu nêu trong mục 6 ở trên.
8. Yêu cầu kỹ thuật đối với kiểu loại xe sửa đổi
8.1.Mọi kiểu loại xe có sửa đổi về ghế, hệ thống lắp đặt ghế và/hoặc đệm tựa đầu của ghế trong mọi trường hợp xe phải thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật của Tiêu chuẩn này.
8.2. Khi cần thiết, phải xem xét cả báo cáo thử nghiệm để chứng nhận kiểu loại.
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH ĐIỂM H VÀ GÓC THÂN NGƯỜI THỰC TẾ CHO CHỖ NGỒI TRÊN XE
1. Phương pháp mô tả trong phụ lục này được sử dụng để xác định vị trí điểm H và góc thân người thực tế của một hoặc nhiều chỗ ngồi trên xe và để kiểm tra mối liên hệ giữa giá trị đo được với thông số thiết kế của nhà sản xuất xe(1).
Chú thích: (1) Tại bất kỳ chỗ ngồi nào không phải là chỗ ngồi phía trước mà tại đó không thể dùng máy 3DH hoặc phương pháp khác để xác định điểm H thì có thể lấy điểm R do nhà sản xuất xe xác định để tham khảo với sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền.
2. Định nghĩa áp dụng cho phụ lục này:
2.1. Số liệu chuẩn (Reference data): một hoặc nhiều thông số của chỗ ngồi dưới đây:
- điểm H và điểm R, mối liên hệ giữa chúng.
- góc thân người thực tế và góc thân người thiết kế, mối liên hệ giữa chúng.
2.2. Máy đo điểm H ba chiều (gọi tắt là máy 3DH) (Three-dimensional H-point machine): máy được sử dụng để xác định điểm H và góc thân người thực tế. Máy này được mô tả trong phụ lục 1.1.
2.3. Điểm H (H point): giao điểm của trục quay lý thuyết giữa hông và thân người được mô phỏng bởi ma-nơ-canh mô tả và thiết lập trong phụ lục 1.1 với mặt phẳng thẳng đứng. Điểm này thể hiện vị trí của người ngồi trong khoang chở người và được xác định theo phương pháp nêu trong phụ lục này.
2.4. Điểm R hay điểm ngồi chuẩn (R point or seating reference point): điểm thiết kế do nhà sản xuất xe quy định cho từng chỗ ngồi và được thiết lập trong hệ toạ độ ba chiều.
2.5. Đường thân người (Torso line): đường tâm của trục máy 3DH khi trục này ở vị trí ngả hết về phía sau.
2.6. Góc thân người thực tế (Actual torso angle): góc giữa đường thẳng đứng đi qua điểm H và đường thân người. Góc này được đo bởi thước đo góc lưng của máy 3DH như mô tả trong phụ lục 1.1. Về lý thuyết góc thân người thực tế bằng góc thân người thiết kế (các giá trị sai lệch xem mục 2.2.2 của phụ lục này).
2.7. Góc thân người thiết kế (Design torso angle): góc giữa đường thẳng đứng đi qua điểm R và đường thân người ở vị trí tương ứng với vị trí thiết kế của đệm tựa lưng do nhà sản xuất xe quy định.
2.8. Mặt phẳng đối xứng của người ngồi (Centre plane of occupant - CPO): mặt phẳng đối xứng của máy 3DH đặt trên từng chỗ ngồi quy định; mặt phẳng này được xác định bởi toạ độ của điểm H theo trục Y. Đối với các ghế có một chỗ ngồi, CPO trùng với mặt phẳng dọc trung tuyến của ghế. Đối với các ghế khác, CPO do nhà sản xuất xe quy định.
2.9. Hệ toạ độ ba chiều: hệ toạ độ được mô tả trong hình 1.3 của phụ lục 1.1.
2.10. Dấu chuẩn cơ sở (Primary reference marks): các lỗ, các bề mặt, các dấu và các ký hiệu nhận dạng trên thân xe. Loại dấu chuẩn được sử dụng và vị trí của từng dấu theo các toạ độ X, Y, Z của hệ toạ độ ba chiều và theo mặt đỗ xe do nhà sản xuất xe quy định. Các dấu này có thể là các điểm để kiểm tra điều chỉnh được sử dụng khi lắp ráp thân xe.
2.11. Vị trí đo của xe (Vehicle measuring attitude): vị trí của xe được xác định theo các tọa độ của các dấu chuẩn trong hệ toạ độ ba chiều.
3. Yêu cầu
3.1. Trình bày số liệu
Đối với từng chỗ ngồi cần có số liệu chuẩn để chứng minh sự phù hợp với các qui định của Tiêu chuẩn này, tất cả hoặc một phần các số liệu dưới đây phải được trình bày theo mẫu trong phụ lục 1.2:
3.1.1. Các tọa độ của điểm R trong hệ toạ độ ba chiều.
3.1.2. Góc thân người thiết kế.
3.1.3. Tất cả các thông số cần thiết để điều chỉnh ghế (đối với ghế điều chỉnh được) tới vị trí đo nêu tại 3.3 của phụ lục này.
3.2. Mối liên hệ giữa số liệu đo được và thông số thiết kế
3.2.1. Tọa độ của điểm H và giá trị của góc thân người thực tế đo được theo phương pháp mô tả tại mục 3 dưới đây phải được đối chiếu lần lượt với tọa độ của điểm R và giá trị của góc thân người thiết kế do nhà sản xuất xe quy định.
3.2.2. Các vị trí tương đối của điểm R và điểm H và mối liên hệ giữa góc thân người thiết kế với góc thân người thực tế của chỗ ngồi đang xét được coi như thỏa mãn nếu điểm H (được xác định bởi các toạ độ của nó) nằm trong hình vuông có các cạnh bằng 50mm và có 2 đường chéo cắt nhau tại điểm R và nếu sai lệch giữa góc thân người thực tế với góc thân người thiết kế không lớn hơn 50.
3.2.3. Nếu các điều kiện trên được thỏa mãn, điểm R và góc thân người thiết kế phải được sử dụng để chứng minh sự phù hợp với các qui định của Tiêu chuẩn này.
3.2.4. Nếu điểm H hoặc góc thân người thực tế không thỏa mãn các yêu cầu của mục 2.2.2 thì chúng phải được xác định thêm 2 lần nữa (tất cả 3 lần). Nếu kết quả của 2 trong 3 lần xác định trên thỏa mãn yêu cầu của mục 2.2.2, điều kiện của mục 2.2.3 trên phải được áp dụng.
3.2.5. Nếu kết quả của ít nhất 2 lần trong 3 lần xác định theo mục 3.2.4 không thoả mãn yêu cầu của mục 2.2.2, hoặc nếu việc kiểm tra không thể thực hiện được do nhà sản xuất xe không cung cấp được thông tin về vị trí điểm R hoặc về góc thân người thiết kế thì trọng tâm của 3 điểm đo hoặc giá trị trung bình đo được của 3 góc phải được sử dụng và được coi như có thể áp dụng trong tất cả các trường hợp mà điểm R hoặc góc thân người thiết kế thoả mãn Tiêu chuẩn này.
4. Phương pháp xác định điểm H và góc thân người thực tế
4.1. Trước khi thử, xe phải được đặt trong điều kiện do nhà sản xuất xe quy định với nhiệt độ môi trường bằng 200C ± 100C để bảo đảm vật liệu của ghế đạt nhiệt độ phòng. Nếu ghế chưa bao giờ có người ngồi, phải cho một người hoặc một thiết bị nặng từ 70 đến 80 kg ngồi lên ghế 2 lần/phút cho đến khi lớp đệm và lưng ghế được làm cong. Theo yêu cầu của nhà sản xuất xe, tất cả các ghế phải chưa được chất tải trong khoảng thời gian ít nhất là 30 phút trước khi lắp đặt máy 3DH.
4.2. Xe phải được đặt ở vị trí đo định nghĩa tại mục 3.23 của Tiêu chuẩn này.
4.3. Ghế điều chỉnh được trước hết phải được điều chỉnh tới vị trí ngồi hoặc vị trí lái thông thường sau cùng theo quy định của nhà sản xuất xe, trừ ghế di động sử dụng cho mục đích khác với chỗ ngồi hoặc lái thông thường. Nếu ghế có thể điều chỉnh theo cách khác (thay đổi độ cao, thay đổi góc ngồi, đệm tựa của ghế, v.v...) thì việc điều chỉnh tới các vị trí này phải được thực hiện theo chỉ dẫn của nhà sản xuất xe. Đối với các ghế có giảm xóc, độ cao phải được cố định tương ứng với vị trí lái thông thường theo quy định của nhà sản xuất xe.
4.4. Vùng chỗ ngồi để đặt máy 3DH phải được phủ bằng một lớp vải bông mỏng, đủ kích thước và kết cấu bề mặt thích hợp, như vải bông thô có mật độ 18,9 sợi/cm2 và nặng 0,228 kg/m2, hoặc bằng vải đan hoặc dệt có đặc tính tương đương.
Nếu phép thử được thực hiện trên ghế không được lắp vào xe, sàn mà trên đó ghế được đặt lên phải có cùng đặc tính cơ bản(1) như sàn của xe sử dụng ghế đó.
Chú thích: (1) Góc nghiêng của khung ghế, kết cấu bề mặt, chênh lệch độ cao v.v...
4.5. Đặt cụm mông và lưng của máy 3DH sao cho CPO trùng với mặt phẳng tâm của máy 3DH. Theo yêu cầu của nhà sản xuất xe, nếu máy được đặt bên ngoài quá xa đến mức mép ghế không cho phép cân bằng máy 3DH thì có thể di chuyển máy 3DH vào phía trong so với CPO.
4.6. Gắn các cụm bàn chân và cẳng chân dưới vào cụm mông một cách riêng biệt hoặc bằng cách sử dụng thanh chữ T và cụm cẳng chân dưới. Đường thẳng đi qua nút ngắm của điểm H phải song song với mặt đỗ xe (mặt đất...) và vuông góc với mặt phẳng trung tuyến dọc của ghế.
4.7. Điều chỉnh vị trí của bàn chân và cẳng chân của máy 3DH
4.7.1. Chỗ ngồi của người lái và chỗ ngồi bên ngoài của người cùng đi ở dãy ghế trước
4.7.1.1.Cả cụm bàn chân và cẳng chân phải được di chuyển về phía trước sao cho hai bàn chân đặt tự nhiên trên sàn và ở giữa các bàn đạp điều khiển (nếu cần). Nếu có thể, phải đặt bàn chân phải và bàn chân trái cách đều (hoặc hầu như cách đều) mặt phẳng tâm của máy 3DH. Ni vô (ống thuỷ chuẩn) để kiểm tra sự cân bằng theo phương ngang xe của máy 3DH được đưa về phương nằm ngang bằng cách điều chỉnh lại mông máy 3DH (nếu cần) hoặc bằng cách điều chỉnh các cụm cẳng chân và bàn chân về phía sau. Đường thẳng qua nút ngắm của điểm H phải luôn vuông góc với mặt phẳng trung tuyến dọc của ghế.
4.7.1.2.Nếu không thể giữ cẳng chân trái song song với cẳng chân phải và bàn chân trái không được đỡ bởi kết cấu thì phải dịch chuyển bàn chân trái đến vị trí được đỡ bởi kết cấu. Phải luôn điều chỉnh thẳng nút ngắm.
4.7.2. Chỗ ngồi bên ngoài của dãy ghế sau
Đối với các ghế sau hoặc ghế phụ, cẳng chân được đặt theo quy định của nhà sản xuất. Nếu các bàn chân vẫn để trên các bộ phận của sàn có độ cao khác nhau thì bàn chân đầu tiên tiếp xúc với ghế phía trước được coi là chuẩn và bàn chân khác phải được bố trí sao cho ni vô cân bằng ngang của mông máy 3DH được đưa về phương nằm ngang.
4.7.3. Các chỗ ngồi khác
Phương pháp chung được nêu tại mục 3.7.1 ở trên phải được tuân thủ, trừ khi các bàn chân được đặt theo quy định của nhà sản xuất xe.
4.8. Gắn các gia trọng của cẳng chân và đùi và làm cân bằng máy 3DH.
4.9. Làm nghiêng lưng về phía trước tựa vào vấu hạn chế phía trước và kéo máy 3DH ra khỏi đệm tựa bằng cách sử dụng thanh chữ T. Đặt lại vị trí máy 3DH trên ghế bằng một trong các cách sau:
4.9.1. Nếu máy 3DH có xu hướng trượt về phía sau, cho máy 3DH trượt về phía sau cho đến khi không cần tác dụng lực vào thanh chữ T để giữ cân bằng nằm ngang về phía trước nữa, tức là cho đến khi lưng máy tiếp xúc với đệm tựa. Nếu cần thiết, đặt lại vị trí cẳng chân.
4.9.2. Nếu máy 3DH không có xu hướng trượt về phía sau, trượt máy 3DH về phía sau bằng cách đặt tải trọng hướng về phía sau nằm ngang vào thanh chữ T cho đến khi lưng máy tiếp xúc với đệm tựa (xem hình 1.2 của phụ lục 1.1).
4.10. Gắn một gia trọng bằng 100 ± 10 N vào cụm lưng máy 3DH tại giao điểm của thước đo góc bên hông và vỏ bọc thanh chữ T. Hướng tác dụng của tải trọng phải được duy trì theo đường thẳng đi qua giao điểm nêu trên tới một điểm ở ngay phía trên vỏ bọc thanh đùi (xem hình 2.2 của phụ lục 1.1). Sau đó trả lưng máy về tiếp xúc với đệm tựa một cách cẩn thận. Sự cẩn thận phải được duy trì trong suốt phần còn lại của quy trình để tránh cho máy 3DH khỏi trượt về phía trước.
4.11. Lắp đặt gia trọng mông bên phải và trái và sau đó lắp 8 gia trọng thân người. Duy trì sự cân bằng máy 3DH.
4.12. Nghiêng lưng máy về phía trước để khử ứng suất lên đệm tựa. Lắc máy 3DH về hai phía trong phạm vi 100 đối xứng qua mặt phẳng tâm thẳng đứng của máy (50 về mỗi phía) 3 chu kỳ để khử ma sát tích luỹ giữa máy 3DH và ghế ngồi.
Trong khi lắc máy 3DH, thanh chữ T của máy có thể làm lệch việc điều chỉnh thẳng đứng và nằm ngang quy định. Vì vậy thanh chữ T phải được giữ bằng cách đặt một lực bên hợp lý phương ngang trong suốt quá trình lắc này. Sự cẩn thận phải được duy trì trong khi giữ thanh chữ T và lắc máy 3DH để đảm bảo không bị một lực bên ngoài vô ý nào đó tác dụng theo phương thẳng đứng hoặc phía trước và phía sau.
Các bàn chân của máy 3DH không bị chặn hoặc bị giữ lại trong khi thực hiện bước này. Nếu vị trí các bàn chân thay đổi, chúng phải được trả về vị trí cũ ngay sau đó.
Trả lưng máy trở về tiếp xúc với đệm tựa một cách cẩn thận và kiểm tra hai ni vô cho về mức cân bằng. Nếu có bàn chân nào đó bị dịch chuyển trong khi lắc máy 3DH, chúng phải được đặt lại vị trí như sau:
Lần lượt nâng từng bàn chân lên khỏi sàn với một khoảng cách tối thiểu cần thiết cho đến khi bàn chân không bị dịch chuyển nữa. Khi nâng bàn chân, các bàn chân phải có thể quay tự do; không được đặt các tải trọng phía trước hoặc phía bên. Khi mỗi bàn chân được đặt trở về vị trí phía dưới, phải cho gót chân tiếp xúc được với kết cấu đã định theo thiết kế.
Kiểm tra ni vô phía bên cho về mức cân bằng; nếu cần thiết, đặt tải trọng phía bên vào đỉnh của toàn bộ lưng máy sao cho để làm mông của máy 3DH ngang bằng trên ghế ngồi.
4.13. Giữ thanh chữ T để máy 3DH trên đệm ghế không bị trượt về phía trước, tiếp tục thực hiện như sau:
a) Trả lưng máy về tiếp xúc với đệm tựa.
b) Lần lượt tác dụng và thôi tác dụng lực nằm ngang (không vượt quá 25 N) hướng về phía sau lên thanh đo góc lưng ở độ cao xấp xỉ với độ cao trọng tâm của thân người cho đến khi thước đo góc của hông chỉ ra rằng đã đạt được vị trí ổn định sau khi thôi tác dụng lực. Phải thận trọng trong khi thực hiện để đảm bảo rằng không có các lực bên ngoài hướng xuống dưới hoặc phía bên tác dụng vào máy 3DH. Nếu cần phải điều chỉnh tới mức cân bằng khác, quay phần lưng máy về phía trước, điều chỉnh lại mức cân bằng và lặp lại các bước từ mục 3.12.
4.14. Thực hiện tất cả các phép đo
4.14.1.Tọa độ của điểm H được đo theo hệ toạ độ ba chiều.
4.14.2.Góc thân người thực tế được đọc trên thước đo góc lưng máy 3DH với trục máy ngả hết về phía sau.
4.15. Nếu có yêu cầu lặp lại việc lắp đặt của máy 3DH, ghế ngồi phải được đưa trở lại trạng thái không tải với khoảng thời gian ít nhất 30 phút trước khi lắp đặt lại. Không được đặt gia trọng cho máy 3DH lên ghế ngồi lâu hơn thời gian yêu cầu để thực hiện thử nghiệm.
4.16. Nếu các ghế ngồi trong cùng một dãy có thể được coi là giống nhau (ghế băng, các ghế giống nhau v.v..), chỉ cần xác định một điểm H và một góc thân người thực tế cho mỗi một dãy ghế, máy 3DH được đặt ở chỗ ngồi đại diện cho dãy ghế này.
Chỗ ngồi đại diện phải là:
- đối với dãy ghế phía trước: chỗ ngồi của người lái;
- đối với các dãy ghế phía sau: chỗ ngồi ngoài cùng.
MÔ TẢ MÁY ĐO ĐIỂM H BA CHIỀU (MÁY 3DH) VÀ MA-NƠ-CANH
1. Mô tả máy 3 DH
1.1. Mông và lưng
Mông và lưng máy được làm bằng thép và chất dẻo chịu lực; chúng mô phỏng đùi và thân người và lắp với nhau bằng khớp bản lề tại điểm H. Thước đo góc được cố định với trục máy có khớp bản lề tại điểm H để đo góc thân người thực tế. Thanh đùi có thể điều chỉnh, được gắn chặt với mông, tạo thành đường tâm của đùi và sử dụng làm đường cơ sở cho thước đo góc hông.
1.2. Thành phần cẳng chân và thân người
Các cẳng chân phía dưới được nối với cụm mông tại thanh chữ T nối các đầu gối, thanh chữ T là phần kéo dài ra hai phía bên của thanh đùi điều chỉnh được. Các thước đo góc được kết hợp với các cẳng chân phía dưới để đo các góc của đầu gối. Cụm bàn chân phải được hiệu chuẩn để đo góc bàn chân. Hai ni vô định hướng thiết bị trong không gian. Các khối lượng thành phần thân người được đặt ở vị trí tương ứng với trọng tâm để tạo ra khối lượng giống như một người nặng 76 kg trên ghế. Tất cả các khớp nối của máy 3DH phải được kiểm tra để đảm bảo dịch chuyển tự do, nhẹ nhàng với ma sát rất nhỏ.
2. Mô tả ma-nơ-canh
2.1. Phải sử dụng một ma-nơ- canh ba chiều có khối lượng và hình dáng tương ứng với khối lượng và hình dáng của một người lớn có chiều cao trung bình như được mô tả trong hình 1.1 và hình 1.2.
2.2. Ma-nơ-canh phải bao gồm các bộ phận sau đây:
2.2.1. Hai bộ phận, một bộ phận mô phỏng lưng và một bộ phận mô phỏng mông, quay quanh một trục mô phỏng trục quay giữa thân người và đùi. Giao điểm của trục này với mặt phẳng trung tuyến dọc thẳng đứng của chỗ ngồi chính là điểm H.
2.2.2. Hai bộ phận mô phỏng các cẳng chân và được lắp bằng chốt với bộ phận mô phỏng mông.
2.2.3. Hai bộ phận mô phỏng các bàn chân và được lắp với cẳng chân bằng các khớp bản lề mô phỏng mắt cá chân.
2.2.4. Bộ phận mô phỏng mông phải được trang bị thêm một ni vô để kiểm tra cân bằng theo phương ngang của mông.
2.2.5. Các gia trọng của các bộ phận của thân phải được gắn vào các điểm thích hợp tương ứng với các trọng tâm của chúng sao cho tổng khối lượng của ma-nơ-canh bằng 75 kg ± 1%. Các khối lượng của các gia trọng được nêu tại chú thích (1) của hình 1.2.
2.2.6. Đường thân người chuẩn của ma-nơ-canh được thể hiện bởi một đường thẳng đi qua khớp nối giữa đùi với thân người và khớp nối lý thuyết giữa cổ với ngực (xem hình 1.1).
3. Xác định các điểm H và góc đệm tựa thực tế
3.1. Điểm H và góc đệm tựa phải được xác định cho từng chỗ ngồi do nhà sản xuất quy định. Nếu các chỗ ngồi cùng dãy có thể được coi là giống nhau (ghế băng, các ghế giống nhau...), mỗi dãy ghế chỉ cần xác định một điểm H và một góc đệm tựa, ma-nơ-canh được mô tả tại mục 2 được lắp trên một chỗ ngồi đại diện cho cả dãy ghế. Đối với dẫy ghế phía trước, chỗ ngồi đại diện phải là ghế người lái. Các dãy còn lại, ghế đại diện phải là ghế ngoài cùng của dãy đó.
3.2. Khi xác định điểm H và góc đệm tựa thực tế, ghế đang xét phải được đặt ở vị trí lái hoặc vị trí sử dụng thông thường sau cùng thấp nhất do nhà sản xuất quy định. Đệm tựa lưng của ghế điều chỉnh được độ nghiêng phải được khoá hãm theo quy định của nhà sản xuất hoặc ở vị trí tương ứng với góc đệm tựa thực càng gần bằng 25o càng tốt.
4. Lắp đặt ma-nơ-canh trên ghế
4.1. Xe phải được đặt trên mặt đỗ xe nằm ngang. Các ghế phải được điều chỉnh theo quy định tại mục 3.2.
4.2. Ghế để thử phải được phủ bằng một tấm vải để hiệu chỉnh ma-nơ-canh được dễ dàng.
4.3. Ma-nơ-canh phải được đặt lên ghế đang xét sao cho trục quay của nó vuông góc với mặt phẳng trung tuyến dọc xe.
4.4. Các bàn chân của ma-nơ-canh phải được đặt như sau:
4.4.1. Đối với các ghế trước, các bàn chân phải được đặt sao cho ni vô kiểm tra cân bằng theo phương ngang của mông ma-nơ-canh được đưa về phương nằm ngang.
4.4.2. Đối với các ghế sau, các bàn chân phải được đặt xa hết mức sao cho chúng tiếp xúc với ghế
trước. Nếu các bàn chân vẫn để trên các bộ phận của sàn có độ cao khác nhau thì bàn chân
đầu tiên tiếp xúc với ghế phía trước được lấy làm chuẩn và bàn chân kia phải được bố trí sao cho ni vô cân bằng ngang của mông ma-nơ-canh được đưa về phương nằm ngang.
4.4.3. Nếu điểm H đang được xác định thuộc một ghế giữa, mỗi bàn chân phải được đặt ở mỗi bên của đường hầm(1).
Chú thích: (1) Một số xe có bố trí thiết bị sưởi nằm trong kết cấu kín ở giữa sàn xe có dạng giống như một đường hầm.
4.5. Các gia trọng phải được đặt lên các cẳng chân, ni vô cân bằng ngang của mông ma-nơ-canh được đưa về phương nằm ngang, và các gia trọng đùi phải được đặt vào bộ phận mô phỏng mông của ma-nơ-canh.
4.6. Ma-nơ-canh phải được dịch ra khỏi đệm tựa lưng bằng cách quay lưng thanh chữ T nối các đầu gối của ma-nơ-canh về phía trước. Sau đó ma-nơ-canh phải được đặt lại lên ghế bằng cách trượt mông của nó về phía sau cho đến khi có lực cản lại, lúc này lưng của ma-nơ-canh thay cho đệm tựa lưng của ghế.
4.7. Phải đặt một lực nằm ngang bằng 100 ± 10 N vào ma-nơ-canh hai lần. Hướng và điểm đặt lực được mô tả bằng một mũi tên trong hình 1.2.
4.8. Các gia trọng mông phải được lắp vào bên trái và bên phải, các gia trọng thân người phải được đặt vào đúng vị trí. Ni vô cân bằng ngang của ma-nơ-canh phải được giữ theo phương nằm ngang.
4.9. Ni-vô cân bằng ngang của ma-nơ-canh được đưa về phương nằm ngang, lưng của ma-nơ-canh phải được xoay về phía trước cho đến khi các gia trọng thân người nằm phía trên điểm H để khử các ma sát giữa ma-nơ-canh với đệm tựa lưng của ghế.
4.10. Lưng của ma-nơ-canh phải được dịch chuyển nhẹ nhàng về phía sau để hoàn thành việc lắp đặt ma-nơ-canh lên ghế. Ni-vô cân bằng ngang của ma-nơ-canh phải được đưa về phương nằm ngang. Nếu chưa thoả mãn yêu cầu này, phải lặp lại quy trình nêu trên.
1. Lưng máy (ma-nơ-canh) | 7. Thanh chữ T nối các đầu gối | 13. Thanh đùi |
2. Giá treo gia trọng thân người | 8. Trục máy | 14. Thước đo góc đầu gối |
3. Ni vô cân bằng ngang góc lưng | 9. Thước đo góc lưng | 15. Cẳng chân |
4. Thước đo góc hông | 10. Nút ngắm của điểm H | 16. Thước đo góc bàn chân |
5. Mông máy (ma-nơ-canh) | 11. Trục quay của điểm H |
|
6. Miếng đệm gia trọng thanh đùi | 12. Ni vô cân bằng phía bên |
|
Hình 1.1. Các thành phần của máy 3DH
Hình 1.2. Các kích thước cơ bản của các bộ phận và phân bố tải trọng máy 3DH(1) (Ma-nơ-canh)
(1) Khi mô phỏng ma-nơ-canh máy 3DH được đặt các gia trọng có khối lượng tương ứng như sau:
Bộ phận mô phỏng lưng và mông | 16 kg | Gia trọng đùi | 7 kg |
Gia trọng thân người | 31 kg | Gia trọng cẳng chân | 13 kg |
Gia trọng mông | 8 kg |
|
|
Tổng cộng: 75 kg
Hình 1.3. Hệ tọa độ 3 chiều
SỐ LIỆU CHUẨN LIÊN QUAN ĐẾN CHỖ NGỒI
1. Mã số của số liệu chuẩn
Số liệu chuẩn được liệt kê liên tục cho từng chỗ ngồi. Các chỗ ngồi được xác định bằng một mã gồm hai ký tự. Ký tự đầu là số ả rập chỉ số dãy ghế, theo thứ tự từ đầu xe đến cuối xe. Ký tự thứ hai là chữ hoa chỉ vị trí của ghế ngồi trong dẫy ghế, nhìn theo hướng chuyển động về phía trước của xe.
Các chữ hoa dưới đây được sử dụng
L = bên trái R = bên phải C = ở giữa
2. Mô tả trạng thái của xe khi đo
2.1. Tọa độ của các dấu chuẩn
X ............................
Y ............................
Z ............................
3. Danh mục số liệu chuẩn
3.1. Chỗ ngồi: .............................
3.1.1. Toạ độ của điểm R
X ............................
Y ............................
Z ............................
3.1.2. Góc thân người thiết kế: ...........................
3.1.3. Thông số kỹ thuật để điều chỉnh chỗ ngồi(1)
Điều chỉnh theo phương nằm ngang :............
Điều chỉnh theo phương thẳng đứng :.............
Điều chỉnh góc nghiêng:............ Góc thân người :............
(1) Xóa phần không có
XÁC ĐỊNH CHIỀU CAO VÀ CHIỀU RỘNG CỦA ĐỆM TỰA ĐẦU
Hình 2.1. Chiều cao đệm tựa đầu
Hình 2.2. Chiều rộng đệm tựa đầu
MÔ TẢ ĐƯỜNG CHUẨN THAY THẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐO TRONG QUÁ TRÌNH THỬ
Hình 3.1. Đường chuẩn thay thế
PHƯƠNG PHÁP THỬ ĐỂ KIỂM TRA SỰ HẤP THỤ NĂNG LƯỢNG
1. Lắp đặt mẫu thử , thiết bị thử nghiệm, các dụng cụ ghi và phương pháp thử
1.1. Lắp đặt mẫu thử
Ghế của xe phải được lắp chắc chắn trên băng thử với các bộ phận kèm theo do nhà sản xuất cung cấp sao cho chúng vẫn giữ nguyên vị trí khi có va đập.
Đệm tựa lưng điều chỉnh được cần phải được khóa hãm ở vị trí như qui định tại mục 6.1.1 của tiêu chuẩn này.
Nếu ghế có lắp đệm tựa đầu thì đệm tựa đầu phải được lắp trên đệm tựa lưng giống như trên xe. Nếu là đệm tựa đầu riêng biệt thì nó phải được lắp chắc chắn vào phần kết cấu xe giống như được lắp bình thường.
Nếu đệm tựa đầu điều chỉnh được thì nó sẽ được điều chỉnh đến vị trí bất lợi nhất mà cơ cấu điều chỉnh cho phép.
1.2. Thiết bị thử nghiệm
1.2.1. Thiết bị thử nghiệm bao gồm một quả lắc có trục quay được đỡ bằng các ổ bi cầu và có khối lượng(1) ở tâm va đập của nó được giảm xuống bằng 6,8 kg. Đầu dưới của quả lắc có một đầu giả cứng với đường kính 165mm và tâm của nó trùng với tâm đập của quả lắc.
1.2.2. Đầu giả phải được lắp 2 cảm biến đo gia tốc và một dụng cụ đo tốc độ có khả năng đo các giá trị theo hướng va đập.
1.3. Dụng cụ ghi
Các dụng cụ ghi được sử dụng phải có cấp độ chính xác như sau:
1.3.1. Gia tốc kế
Độ chính xác bằng ± 5%
Cấp tần số của kênh dữ liệu: cấp 600 phù hợp với tiêu chuẩn ISO 6478 - 1980.
Độ nhạy trục chữ thập ≤ 5% của điểm thấp nhất trên thang đo.
1.3.2. Vận tốc kế
Độ chính xác: ± 2,5%
Độ nhạy: 0,5 km/h
1.3.3. Dụng cụ đo thời gian
Các dụng cụ đo thời gian phải ghi được trong suốt quá trình thử và đọc đến 1/1000 giây, đồng thời phải ghi được thời điểm bắt đầu tiếp xúc giữa đầu giả và phần được thử nghiệm khi va đập để dùng cho việc phân tích thử nghiệm.
1.4. Phương pháp thử
1.4.1. Thử nghiệm trên đệm tựa lưng
(1) Quan hệ của khối lượng giảm mr của quả lắc đối với khối lượng tổng m của quả lắc ở khoảng cách a (giữa tâm đập và trục quay) và ở khoảng cách bằng “1” (giữa trọng tâm và trục quay) được cho bởi công thức
Đối với ghế được lắp đặt như ở mục 1.1 của phụ lục này thì hướng va đập từ phía sau hướng ra trước phải đặt trong mặt phẳng dọc và nghiêng một góc 450 đối với phương thẳng đứng.
Các điểm va đập sẽ do phòng thử nghiệm lựa chọn ở vùng 1, hoặc nếu cần thiết thì trong vùng 2 trên các bề mặt có bán kính cong nhỏ hơn 5mm
1.4.2. Thử nghiệm trên đệm tựa đầu
Đệm tựa đầu được lắp và điều chỉnh như nêu tại 1.1. của phụ lục này. Phải thực hiện va đập tại các điểm do phòng thử nghiệm lựa chọn ở vùng 1 và có thể ở vùng 2 trên các bề mặt có bán kính cong nhỏ hơn 5mm
1.4.2.1.Đối với mặt phía sau, hướng va đập từ phía sau hướng ra phía trước phải đặt trong mặt phẳng dọc và nghiêng một góc 450 đối với phương thẳng đứng.
1.4.2.2.Đối với mặt phía trước, hướng va đập từ phía trước hướng ra phía sau phải nằm ngang trong mặt phẳng dọc.
1.4.2.3.Các vùng trước và sau lần lượt được bao quanh bằng mặt phẳng nằm ngang tiếp tuyến với đỉnh của đệm tựa đầu như được xác định tại mục 6.5 của tiêu chuẩn này.
1.4.3. Đầu giả phải va đập vào vật thử với vận tốc 24,1 km/h: vận tốc này phải đạt được bằng một lực đẩy hoặc bằng một thiết bị đẩy phụ trợ.
2. Các kết quả đo
Mức độ giảm tốc là giá trị trung bình các giá trị đọc được trên 2 đồng hồ đo giảm tốc
3. Phương pháp tương đương (Xem mục 6.9 của tiêu chuẩn này )
1. Thử nghiệm khả năng chống lại các ảnh hưởng bên trong
1.1. Phải lắp các ghế thử nghiệm lên thân xe sử dụng ghế đó theo thiết kế. Thân xe này được lắp đặt chắc chắn trên một xe đẩy thử nghiệm như qui định trong các mục sau đây
1.2. Phương pháp sử dụng để lắp đặt thân xe trên xe đẩy thử nghiệm không được phép tạo thêm độ cứng cho cơ cấu lắp đặt ghế.
1.3. Ghế và các bộ phận của ghế được điều chỉnh và khoá hãm như qui định tại mục 6.1.1 của tiêu chuẩn này và ở một trong các vị trí được nêu tại mục 6.3.3 hoặc 6.3.4 của tiêu chuẩn này.
1.4. Nếu các ghế của một nhóm không có các khác biệt chủ yếu như nêu ở mục 3.2 của tiêu chuẩn này thì các thử nghiệm được mô tả ở mục 6.3.1 và 6.3.2 của tiêu chuẩn này được thực hiện với một ghế được điều chỉnh hết về phía trước và một ghế khác được điều chỉnh hết về phía sau .
1.5. Đo sự giảm tốc của xe đẩy thử nghiệm bằng các kênh dữ liệu của tần số (CFC) cấp 60 tương ứng với các đặc tính mô tả trong tiêu chuẩn ISO 6487 (1980).
2. Thử nghiệm bằng cách cho xe hoàn chỉnh đâm vào vật chắn cứng
2.1. Vật chắn gồm một khối bê tông cứng có chiều rộng không nhỏ hơn 3m, chiều cao không nhỏ hơn1,5 m và chiều dầy không nhỏ hơn 0,6 m. Mặt trước khối bê tông vuông góc với đoạn cuối của đường chạy và được phủ bằng các bảng cấu tạo bằng nhiều lớp gỗ có độ dày 19 ± 1 mm. Phía sau khối bê tông phải có ít nhất 90 tấn đất đè vào. Có thế thay thế khối bê tông cứng và đất bằng các vật chắn có bề mặt trước giống như thế nếu cho các kết quả tương đương.
2.2. Để xe chạy tự do tại thời điểm va đập. Xe phải đâm vào khối bê tông theo hướng vuông góc với bức tường va chạm; độ không thẳng tối đa cho phép giữa đường trung tuyến thẳng đứng của mặt trước xe và đường trung tuyến thẳng đứng của tường va chạm là ± 30 cm; xe không được phép còn chịu tác động nào của tay lái hay thiết bị đẩy tại thời điểm va chạm của xe. Tốc độ va chạm nằm trong khoảng từ 48,3 đến 53,1 km/h
2.3. Hệ thống cung cấp nhiên liệu phải được đổ một lượng nhiên liệu hoặc một dung dịch khác tương đương ít nhất bằng 90% dung tích hệ thống.
xác định kích thước “a” c ủa các lỗ hổng của đệm tựa đầu
Hình 6.1. Ví dụ các lỗ hổng nằm ngang
Ghi chú: Mặt cắt A-A là mặt cắt được cắt tại điểm của vùng lỗ hổng mà tại đó cho phép quả cầu đưa vào lỗ sâu nhất mà không có lực bên ngoài tác dụng vào
Hình 6.2. Ví dụ về các lỗ hổng thẳng đứng
Ghi chú: Mặt cắt A-A là mặt cắt được cắt tại điểm của vùng lỗ hổng mà tại đó cho phép quả cầu đưa vào lỗ sâu nhất mà không có lực bên ngoài tác dụng.
PHƯƠNG PHÁP THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ BẢO VỆ NGƯỜI NGỒI ĐỐI VỚI SỰ DỊCH CHUYỂN CỦA HÀNH LÝ
1. Các khối thử nghiệm
Các khối cứng có tâm quán tính ở tâm hình học
Kiểu 1:
Kích thước: 300mm x 300mm x 300mm các cạnh và góc làm tròn tới bán kính 20mm
Khối lượng: 18 kg
Kiểu 2:
Kích thước: 500mm x 350mm x 125mm các cạnh và góc làm tròn tới bán kính 20mm
Khối lượng: 10 kg
2. Chuẩn bị thử
2.1 Thử đệm tựa lưng (hình 1)
2.1.1 Yêu cầu chung
2.1.1.1 Tuỳ sự lựa chọn của nhà sản xuất, các phần có độ cứng nhỏ hơn 50 shore A có thể được tháo ra khỏi ghế và đệm tựa đầu khi thử nghiệm.
2.1.1.2.Phải đặt hai khối thử nghiệm kiểu 1 trên sàn của khoang hành lý. Để xác định vị trí đặt các khối thử nghiệm theo hướng dọc, trước tiên các khối đó sẽ được đặt sao cho mặt trước của chúng tiếp xúc phần của xe tạo ra ranh giới phía trước của khoang hành lý và mặt dưới của chúng nằm trên sàn khoang hành lý. Sau đó dịch chuyển các khối thử nghiệm về phía sau 200 mm theo hướng song song với mặt phẳng trung tuyến dọc xe. Nếu kích thước của khoang hành lý không cho phép dịch chuyển khoảng cách 200 mm và nếu các ghế phía sau điều chỉnh được theo theo phương nằm ngang thì các ghế phải dịch chuyển hết cỡ về phía trước mà cơ cấu dịch chuyển cho phép hoặc tới vị trí có thể tạo ra khoảng cách 200 mm, chọn cách tương ứng với trị số nhỏ hơn trong hai trị số. Trong các trường hợp khác, các khối thử nghiệm phải đặt càng xa phía sau các ghế sau càng tốt. Khoảng cách giữa mặt phẳng trung tuyến dọc xe và mặt bên phía trong của mỗi khối thử nghiệm phải là 25mm để có được khoảng cách 50 mm giữa hai khối thử nghiệm.
2.1.1.3. Trong quá trình thử nghiệm, các ghế phải được điều chỉnh đảm bảo cho cơ cấu khoá hãm không thể bị mở khoá bởi các yếu tố bên ngoài. Nếu có thể thì các ghế phải được điều chỉnh như sau:
Điều chỉnh dọc phải được cố định tại vị trí có một dấu chữ V hoặc cách vị trí sau cùng của ghế do nhà sản xuất quy định về phía trước 10 mm (Đối với các ghế có bộ phận điều chỉnh thẳng đứng độc lập thì đệm ngồi phải được điều chỉnh xuống vị trí thấp nhất có thể được). Thực hiện thử nghiệm với các đệm tựa lưng ở vị trí sử dụng thông thường 2.1.1.4 Nếu đệm tựa lưng có lắp đệm tựa đầu thì khi thử nghiệm đệm tựa đầu phải được điều chỉnh đến vị trí cao nhất có thể được.
2.1.1.5.Nếu lưng của ghế phía sau có thể gập xuống thì chúng phải được cố định chắc chắn ở vị trí thẳng đứng thông thường của chúng bằng cơ cấu khoá hãm tiêu chuẩn .
2.1.1.6.Đối với các ghế ở phía sau không thể lắp được các khối thử nghiệm kiểu 1 thì không phải thực hiện phép thử này.
Hình 7.1. Vị trí các khối thử nghiệm trước khi thử nghiệm các đệm tựa lưng phía sau
2.1.2. Các xe có nhiều hơn 2 hàng ghế .
2.1.2.1. Nếu các ghế hàng sau cùng có thể tháo ra được và/hoặc có thể gập xuống được bởi người sử dụng (theo hướng dẫn của nhà sản xuất) để tăng diện tích cho khoang hành lý thì chỉ phải thử nghiệm cho hàng ghế ngay phía trước hàng ghế sau cùng .
2.1.2.2. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cơ sở thử nghiệm, sau khi tham khảo ý kiến của nhà sản xuất, có thể quyết định không thử 1 trong 2 hàng ghế sau cùng nếu các ghế và các bộ phận kèm theo có thiết kế tương tự và nếu yêu cầu về khoảng cách thử 200mm được đáp ứng.
2.1.3. Khi có một khoảng trống cho phép trượt một khối thử nghiệm kiểu 1 qua các ghế thì các tải trọng thử nghiệm ( hai khối thử nghiệm kiểu 1 ) phải được đặt ở phía sau các ghế sau khi có sự thống nhất giữa cơ sở thử nghiệm và nhà sản xuất
2.1.4. Bố trí thử nghiệm chính xác phải được ghi vào báo cáo thử nghiệm
2.2. Thử nghiệm vách ngăn
Để thử nghiệm các vách ngăn phía trên các đệm tựa lưng, xe phải được lắp vào một sàn thử được nâng cao và cố định có bề mặt chịu tải ở vị trí sao cho trọng tâm của khối thử nằm ở giữa mép cao nhất của đệm tựa lưng ( không kể đến đệm tựa đầu) và trần xe. Một khối thử nghiệm kiểu 2 được đặt trên một sàn thử được nâng cao có bề mặt với kích thước rộng nhất là 500mm x 350mm nằm giữa trục dọc của xe và có bề mặt với kích thước 500mm x 125mm cho phía trước. Không phải thử đối với vách ngăn mà phía sau nó không thể lắp đặt được khối thử nghiệm kiểu
2. Khối thử nghiệm được đặt tiếp xúc trực tiếp với vách ngăn. Ngoài ra, hai khối thử nghiệm kiểu
1 được đặt như đã nêu trong mục 2.1 của phụ lục này để thực hiện một phép thử đồng thời trên các đệm tựa lưng (Xem hình 6.2)
Hình 7.2. Thử nghiệm vách ngăn ở phía trên đệm tựa lưng
2.2.1. Nếu đệm tựa lưng có lắp đệm tựa đầu thì đệm tựa đầu phải được thử ở vị trí cao nhất có thể điều chỉnh được.
3. Thử động học các đệm tựa lưng và hệ thống vách ngăn
Thân xe phải được cố định chắc chắn với xe trượt thử nghiệm và các thiết bị cố định chắc chắn xe này không được phép làm tăng khả năng chịu lực cho các đệm tựa lưng và vách ngăn. Sau khi lắp các khối thử nghiệm như mô tả ở mục 2.1 và mục 2.2, thân xe phải đựơc gia tốc như nêu
|
|
ở phụ lục 7.1 sao cho tại thời điểm va đập thì tốc độ chạy tự do của xe là km/h. Nếu nhà sản xuất đồng ý thì hành lang xung động thử nghiệm như được mô tả ở trên có thể được sử dụng thay thế để thực hiện thử độ cứng vững của ghế theo mục 6.3.1 của tiêu chuẩn này
HÀNH LANG GIẢM TỐC CỦA XE TRƯỢT THỬ NGHIỆM NHƯ MỘT HÀM CỦA THỜI GIAN
(Va chạm phía trước)
Hình 7.3. Đồ thị biểu diễn sự giảm tốc theo thời gian
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.