TCVN
7391-11:2020
ISO 10993-11:2017
ĐÁNH GIÁ SINH HỌC TRANG THIẾT BỊ Y TẾ - PHẦN 11: PHÉP THỬ ĐỘC TÍNH TOÀN THÂN
Biological evaluation of medical devices - Part 11: Tests for systemic toxicity
Lời nói đầu
TCVN 7391-11:2020 thay thế cho TCVN 7391-11:2007.
TCVN 7391-11:2020 hoàn toàn tương đương với ISO 10993-11:2017.
TCVN 7391-11:2020 do Ban Kỹ thuật Tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC194 Đánh giá sinh học và lâm sàng trang thiết bị y tế biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.
Bộ TCVN 7391 (ISO 10993), Đánh giá sinh học trang thiết bị y tế, gồm các tiêu chuẩn sau:
- TCVN 7391-1:2004 (ISO 10993-1:2003), Phần 1: Đánh giá và thử nghiệm
- TCVN 7391-2:2020 (ISO 10993-2:2006), Phần 2: Yêu cầu sử dụng động vật
- TCVN 7391-3:2020 (ISO 10993-3:2014), Phần 3: Phép thử độc tính di truyền, khả năng gây ung thư và độc tính sinh sản
- TCVN 7391-4:2020 (ISO 10993-4:2017), Phần 4: Lựa chọn phép thử tương tác với máu
- TCVN 7391-5:2020 (ISO 10993-5:2009), Phần 5: Phép thử độc tính tế bào in vitro
- TCVN 7391-6:2020 (ISO 10993-6:2016), Phần 6: Phép thử hiệu ứng tại chỗ sau cấy ghép
- TCVN 7391-7:2004 (ISO 10993-7:1995), Phần 7: Dư lượng sau tiệt trùng bằng etylen oxit
- TCVN 7391-10:2002 (ISO 10993-10:2007), Phần 10: Phép thử kích thích và quá mẫn muộn
- TCVN 7391-11:2020 (ISO 10993-11:2017), Phần 11: Phép thử độc tính toàn thân
- TCVN 7391-12:2002 (ISO 10993-12:2007), Phần 12: Chuẩn bị mẫu và vật liệu chuẩn
- TCVN 7391-14:2001 (ISO 10993-14:2007), Phần 14: Nhận dạng và định lượng sản phẩm phân hủy từ gốm sứ
- TCVN 7391-15:2007 (ISO 10993-15:2000), Phần 15: Nhận dạng và định lượng sản phẩm phân hủy từ kim loại và hợp kim
- TCVN 7391-16:2020 (ISO 10993-16:2017), Phần 16: Thiết kế nghiên cứu độc lực cho sản phẩm phân hủy và ngâm chiết
- TCVN 7391-17:2002 (ISO 10993-17:2007), Phần 17: Thiết lập giới hạn cho phép của chất ngâm chiết
- TCVN 7391-18:2005 (ISO 10993-18:2007), Phần 18: Đặc trưng hoá học của vật liệu
Bộ ISO 10993 còn các tiêu chuẩn sau:
- ISO 10993-9:2019, Biological evaluation of medical devices - Part 9: Tramework for identification and quantification of potential degradation products
- ISO 10993-13:2010, Biological evaluation of medical devices - Part 13: Identification and quantification of degradation products from polymeric medical devices
- ISO/TS 10993-19:2020, Biological evaluation of medical devices - Part 19: Physicochemical, morphological and topographical characterization of materials
- ISO/TS 10993-20:2006, Biological evaluation of medical devices - Part 20: Principles and methods for immunotoxicology testing of medical devices
- ISO/TR 10993-22:2017, Biological evaluation of medical devices - Part 22: Guidance on nanomaterials
- ISO/TR 10993-33:2015, Biological evaluation of medical devices - Part 33: Guidance on tests to evaluate genotoxicity - Supplement to ISO 10993-3
Lời giới thiệu
Độc tính toàn thân là một tác dụng phụ tiềm tàng của việc sử dụng các thiết bị y tế. Các tác động tổng quát, cũng như các tác động của cơ quan và hệ cơ quan có thể là kết quả của sự hấp thụ, phân phối và chuyển hóa chất ngâm chiết từ thiết bị hoặc các vật liệu của nó đến các bộ phận của cơ thể mà chúng không tiếp xúc trực tiếp. Tiêu chuẩn này đề cập đến việc đánh giá độc tính toàn thân, không phải là độc tính của cơ quan đích hay hệ thống cơ quan cụ thể, mặc dù những tác động này có thể là do sự hấp thụ và phân phối chất độc toàn thân.
Do có nhiều loại trang thiết bị y tế, vật liệu và mục đích sử dụng của chúng, tiêu chuẩn này không quá quy định. Mặc dù nó đề cập đến các khía cạnh phương pháp cụ thể được xem xét trong thiết kế các thử nghiệm độc tính toàn thân, thiết kế nghiên cứu thích hợp phải được thiết kế riêng cho bản chất của vật liệu trên trang thiết bị và ứng dụng lâm sàng dự định của nó.
Các yếu tố khác của tiêu chuẩn này có tính chất quy định, bao gồm các khía cạnh giải quyết việc tuân thủ các thực hành tốt trong phòng thí nghiệm và các yếu tố để đưa vào báo cáo.
Mặc dù một số phép thử độc tính toàn thân (ví dụ như cấy ghép dài hạn hoặc nghiên cứu độc tính trên da) có thể được thiết kế để nghiên cứu các tác động toàn thân cũng như tác dụng gây ung thư hoặc sinh sản, tiêu chuẩn này chỉ tập trung vào các khía cạnh của các nghiên cứu này, nhằm giải quyết các tác động toàn thân. Các nghiên cứu nhằm giải quyết các điểm cuối độc tính khác được đề cập trong TCVN 7391-3 (ISO 10993-3), TCVN 7391-6 (ISO 10993-6), TCVN 7391-10 (ISO 10993-10) và ISO/TS 10993-20.
Trước khi tiến hành nghiên cứu độc tính toàn thân, cần xem xét lại tất cả dữ liệu hợp lý và phương pháp hợp lý về mặt khoa học trong việc lập kế hoạch và hoàn thiện thiết kế nghiên cứu độc tính toàn thân. Điều này bao gồm sự phù hợp của việc sử dụng dữ liệu đầu vào như dữ liệu độc tính hiện có, dữ liệu từ các nghiên cứu đặc tính hóa học và/hoặc các phép thử sinh học khác (bao gồm các thử nghiệm in vitro và các phép thử in vivo ít xâm lấn) để hoàn thiện thiết kế nghiên cứu, lựa chọn liều và/hoặc lựa chọn các điểm cuối bệnh lý để đưa vào đánh giá của một nghiên cứu. Đối với nghiên cứu độc tính toàn thân phơi nhiễm lặp lại nói riêng, việc sử dụng thiết kế nghiên cứu khoa học, sử dụng nghiên cứu thí điểm và thiết kế nghiên cứu thống kê và sử dụng các phương pháp/điểm cuối định lượng trong bệnh lý (bao gồm mô bệnh học) và phương pháp hóa học lâm sàng là quan trọng để có được dữ liệu có đủ giá trị khoa học.
Cuối cùng, độc học là một khoa học không hoàn hảo. Kết quả của bất kỳ thử nghiệm đơn lẻ nào không phải là cơ sở duy nhất để đưa ra quyết định liệu một trang thiết bị có an toàn cho mục đích sử dụng hay không.
ĐÁNH GIÁ SINH HỌC TRANG THIẾT BỊ Y TẾ - PHẦN 11: PHÉP THỬ ĐỘC TÍNH TOÀN THÂN
Biological evaluation of medical devices - Part 11: Tests for systemic toxicity
Tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu và đưa ra hướng dẫn về các quy trình cần tuân thủ trong việc đánh giá tiềm năng của vật liệu trang thiết bị y tế để gây ra các phản ứng bất lợi toàn thân.
Các tài liệu viện dẫn sau đây là cần thiết để áp dụng tiêu chuẩn này. Đối với các tài liệu viện dẫn ghi năm công bố thì áp dụng bản được nêu. Đối với các tài liệu viện dẫn không ghi năm công bố thì áp dụng phiên bản mới nhất, bao gồm cả các sửa đổi, bổ sung (nếu có).
TCVN 7391-1 (ISO 10993-1), Đánh giá sinh học trang thiết bị y tế - Phần 1: Đánh giá và thử nghiệm trong quy trình quản lý rủi ro
TCVN 7391-2 (ISO 10993-2), Đánh giá sinh học trang thiết bị y tế - Phần 2: Yêu cầu sử dụng động vật
Trong tiêu chuẩn này áp dụng các thuật ngữ và định nghĩa trong TCVN 7391-1 (ISO 10993-1) và các thuật ngữ, định nghĩa sau.
3.1
liều/liều lượng (dose/dosage)
số lượng mẫu thử được quản lý (ví dụ: khối lượng, thể tích) được biểu thị trên một đơn vị trọng lượng cơ thể hoặc diện tích bề mặt
3.2
liều tác động (dose-effect)
tương quan giữa liều lượng và khả năng tác động sinh học được xác định hoặc ở một cá thể hoặc trong một mẫu quần thể
3.3
liều đáp ứng (dose-response)
tương quan giữa liều lượng với phổ tác động liên quan đến phơi nhiễm
CHÚ THÍCH 1: Có hai dạng quan hệ liều đáp ứng. Dạng thứ nhất là phản ứng của một cá thể với một dải các liều. Dạng thứ hai là sự phân bố các phản ứng của quần thể cá thể với một dải các liều.
3.4
chất ngâm chiết (leachable substance)
hóa chất được loại bỏ khỏi trang thiết bị hoặc vật liệu do tác động của nước hoặc các chất lỏng khác liên quan đến việc sử dụng trang thiết bị
CHÚ THÍCH 1: Ví dụ về các chất ngâm chiết là các phụ gia, dư lượng chất tiệt trùng, dư lượng quá trình, sản phẩm phân hủy, dung môi, chất hóa dẻo, chất bôi trơn, chất xúc tác, chất ổn định, chất chống oxy hóa, chất tạo màu, chất độn và monome.
3.5
phép thử giới hạn (limit test)
sử dụng một nhóm duy nhất được xử lý với liều lượng mẫu thử phù hợp để phân định sự hiện diện hay không có nguy cơ gây độc
3.6
độc tính toàn thân (systemic toxicity)
độc tính không bị giới hạn với các tác động bất lợi tại vị trí tiếp xúc giữa cơ thể và trang thiết bị
CHÚ THÍCH 1: Độc tính toàn thân phụ thuộc vào sự hấp thụ và phân bổ một chất độc từ điểm đầu vào của nó đến một vị trí xa tại đó xảy ra các tác dụng gây độc.
3.7
độc tính toàn thân cấp tính (acute systemic toxicity)
các tác động bất lợi xảy ra tại bất cứ lúc nào trong vòng 72 h sau khi phơi nhiễm một lần, nhiều lần hoặc liên tục của mẫu thử trong 24 h
3.8
độc tính toàn thân bán cấp tính (subacute systemic toxicity)
các tác động bất lợi xảy ra sau khi phơi nhiễm nhiều hoặc liên tục trong khoảng thời gian từ 24 h đến 28 ngày
CHÚ THÍCH 1: Vì thuật ngữ này không chính xác về mặt ngữ nghĩa, nên các tác động bất lợi xảy ra trong khoảng thời gian quy định cũng có thể được mô tả như một nghiên cứu độc tính toàn thân phơi nhiễm lặp lại ngắn hạn. Việc lựa chọn các khoảng thời gian từ 14 ngày đến 28 ngày phù hợp với hầu hết các hướng dẫn quy định quốc tế và được coi là một cách tiếp cận hợp lý. Các nghiên cứu tiêm tĩnh mạch bán cấp tính thường được định nghĩa là thời gian xử lý > 24 h nhưng < 14 ngày.
3.9
độc tính toàn thân bán trường diễn (subchronic systemic toxicity)
các tác động bất lợi xảy ra sau khi đưa vào cơ thể lặp lại hoặc liên tục một mẫu thử trong một phần quãng đời
CHÚ THÍCH 1: Các nghiên cứu độc tính toàn thân bán trường diễn thường là 90 ngày ở loài gặm nhấm nhưng không vượt quá 10 % tuổi thọ của các loài khác. Các nghiên cứu tiêm tĩnh mạch cận lâm sàng thường được định nghĩa là thời gian xử lý tương ứng từ 14 ngày đến 28 ngày đối với các loài gặm nhấm và không gặm nhấm.
3.10
độc tính toàn thân trường diễn (chronic systemic toxicity)
các tác động bất lợi xảy ra sau khi đưa vào cơ thể lặp lại hoặc liên tục một mẫu thử trong một phần lớn quãng đời
CHÚ THÍCH 1: Các nghiên cứu độc tính trường diễn thường có thời gian từ 6 tháng đến 12 tháng.
3.11
mẫu thử (test sample)
vật liệu, trang thiết bị, bộ phận trang thiết bị, thành phần, chất chiết hoặc phần chiết từ trang thiết bị dung để thử nghiệm hoặc đánh giá sinh học hoặc hóa học
Trước khi quyết định thực hiện phép thử độc tính toàn thân được đưa ra, TCVN 7391-1 (ISO 10993-1) phải được tính đến. Quyết định thực hiện phép thử phải được chứng minh dựa trên đánh giá về nguy cơ độc tính toàn thân. Việc lựa chọn các thử nghiệm thích hợp cho trang thiết bị phải theo TCVN 7391-1 (ISO 10993-1), cân nhắc kỹ cách thức và thời gian tiếp xúc.
Thử nghiệm phải được thực hiện trên sản phẩm thành phẩm và/hoặc mẫu thành phần đại diện của sản phẩm và/hoặc vật liệu. Các mẫu thử phải phản ánh các điều kiện trong đó trang thiết bị thường được chế tạo và xử lý. Nếu cần độ lệch thì phải ghi lại độ lệch trong báo cáo thử nghiệm, cùng với lập luận giải thích. Đối với mục đích xác định nguy cơ, có thể cần phải tăng cường phơi nhiễm với các mẫu thử.
Tính chất vật lý và hóa học của mẫu thử bao gồm, ví dụ: độ pH, độ ổn định, độ nhớt, độ thẩm thấu, dung tích đệm, độ hòa tan và độ vô trùng, là một số yếu tố cần xem xét khi thiết kế nghiên cứu.
Khi xem xét các phép thử trên động vật, tất cả các lựa chọn thay thế, giảm thiểu và tinh chế hợp lý và thực tế nên được xác định và thực hiện để đáp ứng các quy định của TCVN 7391-2 (ISO 10993-2). Đối với thử nghiệm độc tính cấp tính in vivo, dữ liệu độc tính tế bào in vitro rất hữu ích trong việc ước tính liều ban đầu.
Không có tiêu chí tuyệt đối nào để chọn một loài động vật cụ thể để thử nghiệm độc tính toàn thân của các trang thiết bị y tế. Tuy nhiên, các loài được sử dụng phải hợp lý về mặt khoa học và phù hợp với các quy định của TCVN 7391-2 (ISO 10993-2). Đối với các nghiên cứu cấp tính về đường miệng, tĩnh mạch, da và hít vào của các trang thiết bị y tế, loài gặm nhấm (chuột nhắt hoặc chuột cống trắng) có thể là ưu tiên, ngoài ra có thể chọn thỏ (lagomor) trong trường hợp nghiên cứu về da và cấy ghép. Các loài không thuộc bộ gặm nhấm cũng có thể cần được xem xét khi thử nghiệm, ghi nhận rằng một số yếu tố có thể quyết định số lượng hoặc chọn loài để nghiên cứu.
Tốt nhất chỉ sử dụng một loài hoặc một chủng động vật khi tiến hành một loạt các nghiên cứu độc tính toàn thân trong các khoảng thời gian khác nhau, ví dụ: độc tính toàn thân cấp tính, bán cấp tính, bán trường diễn và/hoặc trường diễn. Điều này kiểm soát được thay đổi giữa các loài và các chùng, tạo điều kiện cho việc đánh giá chỉ liên quan đến thời gian nghiên cứu. Nếu sử dụng nhiều loài hoặc nhiều chủng, sự giải thích cho lựa chọn chúng phải được ghi lại.
Nhìn chung, nên sử dụng động vật trưởng thành, nòi khỏe mạnh biết rõ nguồn gốc và đã xác định được tình trạng sức khỏe vi sinh học. Khi bắt đầu nghiên cứu, sự thay đổi khối lượng của động vật được sử dụng trong phạm vi một giới không được vượt quá ± 20 % khối lượng trung bình. Khi sử dụng con cái, chúng phải chưa sinh đẻ và không mang thai. Lựa chọn động vật phải chính xác.
4.4 Chăm sóc và chăn nuôi động vật
Chăm sóc và xử lý động vật phải phù hợp với các hướng dẫn chăn nuôi động vật đã được chấp nhận. Động vật phải được làm cho thích nghi với các điều kiện phòng thí nghiệm trước khi xử lý và khoảng thời gian được ghi nhận. Kiểm soát các điều kiện môi trường và kỹ thuật chăm sóc động vật thích hợp là cần thiết để có được các kết quả có ý nghĩa. Thành phần dinh dưỡng và vật liệu làm chuồng trại được xem xét đặc trưng và tiềm năng ảnh hưởng đến kết quả phép thử độc tính.
4.5.1 Cỡ nhóm
Độ chụm của phép thử độc tính toàn thân phụ thuộc chủ yếu vào số lượng động vật được sử dụng trên mỗi mức liều. Mức độ chụm cần thiết và số lượng động vật trên mỗi nhóm liều cần thiết phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Cỡ nhóm nên tăng một cách hợp lý theo thời gian xử lý, như vậy khi kết thúc nghiên cứu, vẫn có đủ động vật trong mỗi nhóm để đánh giá sinh học được kỹ lưỡng. Tuy nhiên, số lượng động vật tối thiểu nên sử dụng phù hợp với việc nhận được kết quả có ý nghĩa (xem TCVN 7391-2 (ISO 10993-2)). Cỡ nhóm tối thiểu được khuyến nghị, tất cả các cách được xem xét, được nêu trong Bảng 1.
Bảng 1 - Cỡ nhóm tối thiểu được khuyến nghị
Loại nghiên cứu |
Loài gặm nhấm, con |
Không phải loài gặm nhấm, con |
Cấp tính |
5 |
3 |
Bán cấp tính |
10 (5 trên mỗi giới) a |
6 (3 trên mỗi giới) a |
Bán trường diễn |
20 (10 trên mỗi giới) a |
8 (4 trên mỗi giới) a |
Trường diễn |
30 (15 trên mỗi giới) b,c |
c |
a Thử nghiệm trong một giới có thể được chấp nhận. Khi trang thiết bị dự định chỉ được sử dụng cho một giới thì việc thử nghiệm nên được thực hiện trong giới đó. b Khuyến nghị đối với loài gặm nhấm đề cập đến thử nghiệm do nhóm chỉ có một mức liều. Khi bao gồm các nhóm liều tăng bổ sung, cỡ nhóm được khuyến nghị có thể giảm xuống còn 10 trên mỗi giới. c Khuyến khích chuyên gia tư vấn thống kê cho nghiên cứu trường diễn cỡ nhóm không phải loài gặm nhấm. Số lượng động vật được thử nghiệm phải dựa trên mức tối thiểu cần thiết để cung cấp dữ liệu có ý nghĩa. Phải giữ lại đủ các động vật khi kết thúc nghiên cứu để đảm bảo đánh giá thống kê đúng các kết quả. |
4.5.2 Số lượng nhóm
Một nhóm liều xử lý ở một liều lượng mẫu thử thích hợp trong một loài có thể chỉ ra sự có hoặc không có nguy cơ gây độc (ví dụ: phép thử giới hạn). Tuy nhiên, các nghiên cứu liều đáp ứng hoặc nhiều liều khác cần nhiều nhóm để chỉ ra phản ứng độc.
Số lượng các nhóm xử lý có thể tăng khi cần tăng liều một cách chủ động. Các ví dụ sau đây để tăng liều nên được xem xét:
- tăng diện tích bề mặt lâm sàng tiếp xúc;
- tăng khoảng thời gian tiếp xúc;
- tăng phần có thể chiết hoặc các hóa chất riêng biệt;
- tăng số lần đưa mẫu vào cơ thể trong vòng 24 h.
Các phương pháp khác để tăng liều có thể được chấp nhận. Phương pháp được sử dụng phải được giải thích.
4.5.3 Đối chứng khi xử lý
Tùy thuộc vào mục tiêu của nghiên cứu, bản chất của vật thử và cách phơi nhiễm, các đối chứng âm tính, đối chứng tá dược lỏng và/hoặc đối chứng xử lý giả nên được đưa vào tất cả các nghiên cứu độc tính toàn thân. Các đối chứng này phải sử dụng cùng quy trình chuẩn bị và xử lý mẫu thử.
Các trang thiết bị y tế hoặc các chất ngâm chiết của chúng có thể được tiếp cận với cơ thể bằng nhiều cách phơi nhiễm. Cách thử nghiệm phơi nhiễm phải có liên quan nhất về mặt lâm sàng đối với việc sử dụng trang thiết bị, nếu có thể. Nếu có cách thay thế thì phải giải thích. Ví dụ về cách đưa mẫu thử vào cơ thể có thể tìm thấy trong Phụ lục A.
Hướng dẫn về chuẩn bị mẫu và độ ổn định được nêu trong TCVN 7391-12 (ISO 10993-12).
4.8.1 Đưa mẫu thử vào cơ thể
Các quy trình nên được thiết kế để tránh những thay đổi về sinh lý hoặc các vấn đề phúc lợi động vật không liên quan trực tiếp đến độc tính của vật liệu thử nghiệm. Nếu không thể dùng một liều hàng ngày đủ thể tích hoặc nồng độ, thì có thể dùng liều này với các phần nhỏ hơn trong khoảng thời gian không quá 24 h.
Các mẫu thử phải được chuyển giao ở nhiệt độ cơ thể có thể chấp nhận được về sinh lý. Nhìn chung, nhiệt độ phòng hoặc cơ thể là một thực tế chung. Sự sai lệch phải được giải thích.
Các tá dược lỏng được đưa vào cơ thể qua đường ngoài đường ruột phải tương thích sinh lý. Khi cần, nên sử dụng việc lọc mẫu để loại bỏ các hạt và ghi lại. Khi các trang thiết bị y tế và/hoặc các mẫu thử nghiệm ở dạng vật liệu nano được đánh giá thì không phải thực hiện việc lọc mẫu. (Xem ISO/TR 10993-22).
Việc nuôi giữ động vật trong các nghiên cứu độc tính toàn thân tiếp xúc lặp lại thường giới hạn chỉ từ 4 h đến 6 h mỗi ngày. Bản chất và khoảng thời gian nuôi giữ phải tối thiểu cần để đáp ứng các mục tiêu khoa học và không tổn hại việc sử dụng động vật thử nghiệm. Sự sai lệch phải được giải thích.
Khi cần phải nuôi giữ thì động vật cần được làm thích nghi với thiết bị nuôi giữ trước khi đưa mẫu vào cơ thể.
4.8.2 Thể tích liều
Hướng dẫn về thể tích liều được tóm tắt trong Phụ lục B. Khi sử dụng nhiều nhóm liều, sự thay đổi thể tích thử có thể được giảm thiểu bằng cách điều chỉnh nồng độ để đảm bảo một thể tích không đổi ở tất cả các liều. Việc sử dụng các thể tích liều lượng lớn hơn các thể tích liều lượng nêu trong Phụ lục B phải được giải thích.
Nên tránh đưa mẫu thử vào cơ thể với thể tích liều lớn qua đường miệng vì chúng đã được chứng minh là làm quá tải dung tích dạ dày và truyền ngay vào ruột non. Thể tích lớn cũng có thể trào ngược lên thực quản.
Đưa mẫu thử vào trong cơ cũng cần giới hạn thể tích, tùy thuộc vào kích cỡ của động vật và vị trí cơ. Thể tích đưa mẫu thử vào trong cơ riêng cho từng loài được đề cập trong Phụ lục B.
Thể tích tiêm tĩnh mạch Bolus thường được thực hiện trong thời gian ngắn khoảng 1 min. Tốc độ tiêm là một yếu tố quan trọng và được đề xuất đối với loài gặm nhấm, tốc độ này không được vượt quá 2 ml/min.
Để đưa mẫu thử vào cơ thể với thể tích lớn có thể phải tiêm hoặc truyền tĩnh mạch chậm hoặc đúng giờ. Bất kể tốc độ tính toán, tốc độ truyền dịch phải bị dừng hoặc giảm nếu động vật thể hiện sự thay đổi rõ rệt trong tình trạng lâm sàng.
Tốc độ tiêm tĩnh mạch chậm có thể cần thiết cho các mẫu thử bị hạn chế bởi độ hòa tan hoặc độ kích thích.
Truyền liên tục có thể được sử dụng nếu có chỉ định lâm sàng. Thể tích và tốc độ truyền phụ thuộc vào chất được đưa ra và xem xét kỹ thực hành trị liệu bằng dịch lỏng chuẩn. Theo hướng dẫn, thể tích được truyền trong một lần duy nhất sẽ < 10 % thể tích máu tuần hoàn trong 2 h. Hiệu quả tối thiểu của việc nuôi giữ động vật thử nghiệm là một yếu tố quan trọng được xem xét để truyền dịch kéo dài.
Khi đưa vật thử vào dưới da, tham khảo Phụ lục B. Tốc độ và mức độ hấp thụ phụ thuộc vào công thức mẫu thử.
4.8.3 Tần suất liều
Tần suất liều nên dựa trên mối tương quan lâm sàng. Các quy trình tăng liều phải được quy định và giải thích rõ ràng.
Trong các nghiên cứu độc tính toàn thân cấp tính, động vật nên được phơi nhiễm với mẫu thử ở một liều đơn hoặc với các phần của liều đó trong vòng 24 h.
Trong các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại, động vật nên được cho liều với mẫu thử hàng ngày, bảy ngày mỗi tuần trong suốt thời gian thử nghiệm. Phác đồ liều lượng khác có thể được chấp nhận nhưng phải được giải thích.
4.9 Trọng lượng cơ thể và mức tiêu thụ thức ăn/nước
Thay đổi trọng lượng cơ thể và thay đổi mức tiêu thụ thức ăn và nước có thể là do các tác động của một vật thử. Do đó, khối lượng riêng của các con vật phải được xác định ngay trước khi mẫu thử được đưa vào cơ thể (ví dụ: trong vòng 24 h đối với một làn lấy liều đơn hoặc liều cấp tính, và không quá 7 ngày đối với các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại), tại các khoảng thời gian đều đặn trong suốt quá trình nghiên cứu và lúc kết thúc nghiên cứu. Khi lấy liều theo trọng lượng cơ thể, nên sử dụng trọng lượng cơ thể gần đây nhất.
Đo mức tiêu thụ thức ăn và nước, nếu thích hợp, phải được xem xét cho các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại dài hạn.
Quan sát lâm sàng nên được thực hiện bởi các nhân viên được đào tạo để đảm bảo báo cáo nhất quán. Tần suất và khoảng thời gian quan sát phải được xác định bởi bản chất và mức độ nghiêm trọng của các phản ứng gây độc, tốc độ khởi phát và thời gian phục hồi. Tăng tần suất quan sát có thể là cần thiết trong giai đoạn đầu của một nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu cấp tính. Thời gian mà các dấu hiệu độc xuất hiện và biến mất, khoảng thời gian và thời điểm chết là rất quan trọng, đặc biệt là nếu có xu hướng biểu hiện các dấu hiệu lâm sàng bất lợi hoặc gây chết từ từ. Kết thúc nhân đạo, theo định nghĩa bởi các hướng dẫn sử dụng động vật quốc gia hoặc quốc tế, nên được sử dụng để tránh những đau khổ không cần thiết. Các quan sát lâm sàng tổng quát phải xem xét giai đoạn đỉnh điểm của các tác dụng dự đoán sau khi cho liều.
Các quan sát phải được ghi lại một cách có hệ thống khi chúng được thực hiện. Hồ sơ phải được duy trì cho mỗi con vật.
Các quan sát khi bị nhốt trong lồng về khả năng sống hoặc dấu hiệu lâm sàng quá mức phải được ghi lại ít nhất một lần mỗi ngày bằng cách sử dụng các mô tả các tác động lâm sàng phòng thí nghiệm thông thường (xem Phụ lục C).
Quan sát về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong phải được ghi lại ít nhất hai lần mỗi ngày trong các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại dài hạn. Một sàng lọc rộng hơn cho các dấu hiệu lâm sàng bất lợi có thể được xem xét ít nhất mỗi tuần cho các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại dài hạn.
Phân tích huyết học và hóa học lâm sàng được thực hiện để nghiên cứu các tác dụng gây độc trong các mô, cơ quan và các hệ thống khác. Khi được chỉ định, các phân tích này phải được thực hiện trên các mẫu máu nhận được từ các động vật nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại ít nhất là ngay trước khi, hoặc là một phần của quy trình tiến hành gây chết động vật theo kế hoạch. Cho động vật nhịn ăn trước khi lấy mẫu máu có thể cần thiết trong một số trường hợp. Khi có chỉ dẫn khoa học, phân tích nước tiểu có thể được thực hiện trong tuần cuối cùng của một nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại dài hạn bằng cách lấy thể tích nước tiểu theo thời gian (ví dụ: 16 h đến 24 h).
Các thông số được đề xuất để đánh giá huyết học, hóa học lâm sàng và phân tích nước tiểu được liệt kê trong Phụ lục D.
Khi được chỉ dẫn lâm sàng, đánh giá bệnh học tổng quát nên được xem xét cho các nghiên cứu độc tính toàn thân cấp tính.
Tất cả các động vật trong các nghiên cứu tiếp xúc lặp lại phải được mồ toàn bộ và chi tiết, bao gồm kiểm tra cẩn thận bề mặt bên ngoài của cơ thể, tất cả các lỗ miệng, khoang sọ, khoang ngực và khoang bụng cũng như các thành phần bên trong của chúng. Các cơ quan đã chọn để cản nên được cắt khỏi các mô liên kết, nếu thích hợp, và trọng lượng ướt của chúng được lấy càng sớm càng tốt để tránh bị khô.
Phụ lục E gợi ý các mô cần được cân và bảo quản trong môi trường cố định thích hợp để kiểm tra mô bệnh học.
Tóm tắt các quan sát tối thiểu cho từng loại nghiên cứu được nêu trong Bảng 2.
Bảng 2 - Tóm tắt các quan sát
Quan sát |
Cấp tính |
Bán cấp tính/Bán trường diễn |
Trường diễn |
Thay đổi trọng lượng cơ thể |
+ |
+ |
+ |
Các quan sát lâm sàng |
+ |
+ |
+ |
Bệnh học lâm sàng |
b |
a, b |
+ |
Bệnh học tổng quát |
b |
+ |
+ |
Trọng lượng cơ quan |
b |
+ |
+ |
Mô bệnh học |
b |
a, b |
+ |
+ Dữ liệu cần được cung cấp. |
|
|
|
a Thử nghiệm độc tính toàn thân trường diễn nói chung là kéo dài thời gian thử nghiệm bán cấp tính/bán trường diễn, được chứng minh bằng thời gian phơi nhiễm với con người. Nhiều thông số tương tự được ghi lại và báo cáo. Cỡ nhóm có thể được tăng lên để bao gồm các nhóm vệ tinh trong đó một số hoặc tất cả các quan sát này có thể được thực hiện. b Cần xem xét các phép đo này khi có chỉ định lâm sàng hoặc nếu thử nghiệm phơi nhiễm lâu hơn không lường trước. Danh sách các chất dịch cơ thể được đề xuất và các phản tích nội tạng/mò được bao gồm trong Phụ lục D, Phụ lục E và Phụ lục F. |
Thiết kế nghiên cứu được liệt kê trong các điều tiếp theo của tiêu chuẩn này. Nên tư vấn chuyên gia cho thiết kế nghiên cứu.
4.14 Chất lượng điều tra nghiên cứu
Thực hành phòng thí nghiệm tốt giải quyết việc tổ chức, xử lý và các điều kiện trong đó các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm được lên kế hoạch, thực hiện, theo dõi, ghi lại và báo cáo. Những thực hành này nhằm mục đích thúc đẩy chất lượng và tính hợp lệ của dữ liệu thử nghiệm. Chúng cũng hỗ trợ nỗ lực hài hòa toàn cầu bằng cách tạo điều kiện cho sự ghi nhớ về sự hiểu biết giữa các quốc gia thương mại. Nghiên cứu độc tính toàn thân phải được thực hiện theo các nguyên tắc như vậy.
Độc tính toàn thân cấp tính cung cấp thông tin chung về các nguy cơ đối với sức khỏe có khả năng phát sinh do phơi nhiễm cấp tính bằng phác đồ lâm sàng đã định. Một nghiên cứu độc tính cấp tính có thể là bước khởi đầu trong việc thiết lập một cách thức lấy liều trong các nghiên cứu bán cấp tính/bán trường diễn và các nghiên cứu khác và có thể cung cấp thông tin về kiểu tác động gây độc của một chất bằng cách phơi nhiễm lâm sàng đã định. Tiếp sau việc đưa mẫu thử vào cơ thể trong phép thử độc tính toàn thân cấp tính, cần quan sát các tác động (ví dụ: các dấu hiệu lâm sàng bất lợi, thay đổi trọng lượng cơ thể, phát hiện bệnh học tổng quát) và những cái chết. Động vật có dấu hiệu kiệt sức, đau dai dẳng và nghiêm trọng cần phải gây chết nhân đạo ngay lập tức. Các vật liệu bị bào mòn hoặc gây kích thích được biết là gây ra đau đớn hoặc làm kiệt sức đáng kể nên được báo cáo và do vậy không cần thử.
Ủy ban điều phối liên ngành về đánh giá xác nhận các phương pháp thay thế (The Interagency Coordinating Committee on the Validation of Alternative Methods (ICCVAM)) và Trung tâm đánh giá xác nhận các phương pháp thay thế của Châu Âu (European Centre for the Validation of Alternative Methods (ECVAM)) đã đánh giá xác nhận phép thử độc tính tế bào in vitro là một phương pháp thay thế cho phép thử độc tính cấp tính qua miệng. Kết thúc nhân đạo, như được định nghĩa bởi các hướng dẫn sử dụng động vật quốc gia hoặc quốc tế, nên được sử dụng để tránh làm kiệt sức không cần thiết.
5.2.1 Chuẩn bị
Động vật trưởng thành khỏe mạnh được làm thích nghi với các điều kiện phòng thí nghiệm trong ít nhất 5 ngày trước khi thử nghiệm. Thời gian ngắn hơn phải được giải thích. Động vật sau đó được lấy ngẫu nhiên và được chia thành các nhóm xử lý.
5.2.2 Động vật thực nghiệm
5.2.2.1 Chọn loài
Thông thường sử dụng một loài gặm nhấm (chuột nhắt, chuột cống trắng). Các đặc điểm của mô hình (tuổi, cân nặng, v.v...) được quy định trong 4.2 và 4.3. Nếu sử dụng các loài không thuộc bộ gặm nhấm, thì phải giải thích một cách khoa học việc sử dụng này.
5.2.2.2 Số lượng và giới tính
Số lượng và loại nhóm, số lượng con vật trong mỗi nhóm và giới tính được quy định trong 4.5.
5.2.2.3 Điều kiện nuôi dưỡng
Nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong các buồng nuôi động vật thực nghiệm phải phù hợp với loài, ví dụ: (22 ± 3) °C và độ ẩm tương đối 30 % đến 70 % đối với chuột nhắt. Thông thường tần suất chiếu sáng nhân tạo nên là 12 h chiếu sáng và 12 h bóng tối.
Đối với việc nuôi dưỡng, có thể sử dụng chế độ ăn trong phòng thí nghiệm thương mại chuẩn với nguồn nước uống không hạn chế. Động vật nên được nuôi trong chuồng theo các nhóm giới tính hoặc nuôi riêng biệt, khi thích hợp; khi nuôi theo nhóm thì không được vượt quá năm con trong một chuồng.
5.2.3 Điều kiện thử nghiệm
5.2.3.1 Mức liều
Mức liều phải theo quy định trong 4.8.
Các động vật trong nhóm đối chứng phải được xử lý theo cách giống hệt với các đối tượng của nhóm thử nghiệm ngoại trừ việc không cho chúng các liều của mẫu thử.
5.2.3.2 Quy trình
Các động vật nhận được một liều đơn mẫu thử nghiệm hoặc, khi cần thiết, nhiều liều trong một khoảng thời gian 24 h. Các dấu hiệu độc cần được ghi lại khi quan sát bao gồm thời điểm bắt đầu, mức độ và khoảng thời gian.
Quan sát đều đặn các động vật là cần thiết để đảm bảo rằng động vật không bị thiếu hụt khi nghiên cứu do chúng ăn thịt đồng loại, tự phân hủy của các mô hoặc do sắp xếp sai vị trí. Vào cuối cuộc nghiên cứu, tất cả các động vật còn sống sót đều được gảy chết nhân đạo. Bất kỳ động vật náo bị hấp hối nên được loại bỏ và gây chết nhân đạo khi thấy hành vi như vậy. Các phương pháp được sử dụng cho gây chết nhân đạo phải phù hợp với hướng dẫn sử dụng động vật quốc gia hoặc quốc tế.
Kế hoạch quan sát và các kết thúc nhân đạo được áp dụng phải loại trừ khả năng động vật dược tìm thấy đã chết do hậu quả trực tiếp của độ độc của mẫu thử.
5.2.4 Trọng lượng cơ thể
Số đo trọng lượng cơ thể nên được thực hiện ngay trước khi cho liều, hàng ngày trong ba ngày đầu sau khi cho liều, hàng tuần sau khi cho liều lần đầu tiên nếu được chỉ định theo thời gian nghiên cứu và khi cuối thời điểm nghiên cứu.
5.2.5 Quan sát lâm sàng
Giai đoạn quan sát cho một nghiên cứu độc tính toàn thân cấp tính phải ít nhất là 3 ngày hoặc lâu hơn khi được coi là thích hợp. Cụ thể về tần suất và loại quan sát theo quy định trong 4.10 và Phụ lục C. Trong mọi trường hợp, các quan sát phải được thực hiện ở tần suất và các hành động thích hợp được thực hiện, để giảm thiểu việc hao hụt động vật trong nghiên cứu, ví dụ: mổ xác hoặc làm đông lạnh những con vật đã chết và cách ly hoặc gây chết những con vật yếu đuối hoặc đang hấp hối. Các quan sát khi bị nhốt trong lồng phải bao gồm, nhưng không giới hạn với những thay đổi ở da và lông, mắt và màng nhầy, cả hô hấp, tuần hoàn, hệ thống thần kinh tự chủ và trung ương, hoạt động sinh dưỡng và hoạt động nhận thức, sử dụng các mô tả được cung cấp trong Phụ lục C.
5.2.6 Bệnh học
5.2.6.1 Bệnh học lâm sàng
Đánh giá bệnh học lâm sàng phải được xem xét khi có chỉ định, chẳng hạn như đối với vật liệu trang thiết bị có độc tính dự kiến hoặc quan sát được (từ nghiên cứu trước) hoặc cho vật liệu trang thiết bị mới không có kinh nghiệm trước đó. Khi đánh giá bệnh học lâm sàng được thực hiện, các phép thử sau đây phải được xem xét:
a) Huyết học, theo quy định trong Phụ lục D, cần được xem xét để nghiên cứu vào cuối giai đoạn thử nghiệm.
b) Xác định sinh hóa lâm sàng trên máu, như được liệt kê trong Phụ lục D, nên được xem xét vào cuối giai đoạn thử nghiệm. Các vùng thử nghiệm được coi là phù hợp với các nghiên cứu phơi nhiễm cấp tính là chức năng gan và thận. Sinh hóa lâm sàng bổ sung có thể được sử dụng khi cần thiết để mở rộng quan sát các hiệu ứng quan sát được.
Phép thử nước tiểu (xem Phụ lục D) không cần thiết trên cơ sở thường quy mà chỉ khi có chỉ định dựa trên độc tính dự kiến hoặc quan sát được. Các thông số gợi ý được liệt kê trong Phụ lục D.
5.2.6.2 Bệnh học tổng quát
Đánh giá bệnh học tổng quát phải được xem xét khi có chỉ định, chẳng hạn như đối với vật liệu trang thiết bị có độc tính dự kiến hoặc quan sát được (từ nghiên cứu trước) hoặc cho vật liệu trang thiết bị mới khi không có kinh nghiệm trước đó. Điều này nên bao gồm kiểm tra bề mặt bên ngoài của cơ thể, tất cả các lỗ miệng, các khoang sọ, khoang ngực và khoang bụng, cũng như các thành phần bên trong của chúng. Khi thích hợp, cũng nên xem xét ghi lại trọng lượng của não, gan, thận, tuyến thượng thận và tinh hoàn, nên cân ướt càng sớm càng tốt sau khi cắt để tránh bị khô và dẫn đến các giá trị thấp giả tạo.
5.2.6.3 Mô bệnh học
Mô bệnh học tổng thể thường không được thực hiện trên các cơ quan và mô từ động vật trong nghiên cứu độc tính toàn thân cấp tính, trừ khi được chỉ dẫn cụ thể bằng các phát hiện mổ xác toàn bộ duy nhất.
5.3.1 Quy định chung
Tùy thuộc vào thiết kế thử nghiệm được sử dụng, áp dụng các tiêu chí đánh giá sau đây:
a) Đối với các phép thử kiểu dược điển.
1) Nếu trong giai đoạn quan sát của phép thử độc tính toàn thân cấp tính, không có con vật nào được xử lý bằng mẫu thử cho thấy hoạt tính sinh học cao hơn đáng kể so với con vật được xử lý bằng tá dược lỏng đối chứng thì mẫu đáp ứng các yêu cầu của phép thử này.
2) Sử dụng năm con vật, nếu hai hoặc nhiều hơn hai con vật chết, hoặc nếu hành vi như co giật hoặc kiệt sức xảy ra ở hai hoặc nhiều hơn hai con vật, hoặc nếu cuối cùng (kết thúc nghiên cứu) giảm trọng lượng cơ thể lớn hơn 10 % xảy ra ở ba hoặc nhiều hơn ba con vật thì mẫu không đáp ứng các yêu cầu của phép thử. Bất kỳ sự giảm trọng lượng tạm thời nào cũng cần được đánh giá nghiêm túc cùng với các quan sát lâm sàng khác trong đánh giá độc tính toàn thân.
3) Nếu bất kỳ con vật nào được xử lý với mẫu cho thấy chỉ có dấu hiệu hoạt tính sinh học nhẹ và không quá một con vật cho thấy các triệu chứng hoạt tính sinh học hoặc chết thì lặp lại phép thử bằng cách sử dụng nhóm 10 con vật.
4) Đối với phép thử lặp lại, nếu tất cả 10 con vật được xử lý với mẫu không thấy biểu hiện hoạt tính sinh học có ý nghĩa khoa học so với các con vật đối chứng trong giai đoạn quan sát thì mẫu đáp ứng các yêu cầu của phép thử này.
b) Đối với các phép thử độc tính toàn thân cấp tính không theo dược điển.
Tùy chọn hiện tại để thực hiện các đánh giá bằng các phương pháp có phạm vi rộng hơn bao gồm bệnh học lâm sàng và giải phẫu, có thể loại trừ sự cần thiết lặp lại phép thử. Phơi nhiễm cấp tính có thể bao gồm đánh giá lại nếu có sự khác nhau không rõ rệt so với các đối chứng hiện hành. Sự khác nhau cần được giải thích và nghiên cứu bổ sung thêm năm con vật nữa, nếu có thể áp dụng.
5.3.2 Đánh giá kết quả
Những phát hiện của một nghiên cứu độc tính toàn thân cấp tỉnh nên được đánh giá kết hợp với những phát hiện của các nghiên cứu trước đó, nếu có sẵn, và xem xét về mặt tác động độc và những phát hiện mổ xác toàn bộ, nếu được quan sát. Việc đánh giá phải bao gồm mối quan hệ giữa liều của chất thử với sự có hay không có, cũng như sự xuất hiện và mức độ nghiêm trọng của các bất thường, bao gồm các bất thường về hành vi và lâm sàng, tổn thương toàn bộ, thay đổi trọng lượng cơ thể, ảnh hưởng đến tỷ lệ chết và các tác động chung hoặc cụ thể khác.
Các thông tin sau đây, nếu có, phải được bao gồm trong báo cáo thử nghiệm cuối cùng cho nghiên cứu độc tính toàn thân cấp tính.
a) Chi tiết về phòng thí nghiệm thử nghiệm và nhà tài trợ nghiên cứu, và lý do để lựa chọn thiết kế nghiên cứu.
b) Mẫu thử:
1) tính chất vật lý, độ tinh khiết và tính chất hóa lý, khi thích hợp;
2) dữ liệu nhận dạng khác.
c) Dung môi chiết hoặc tá dược lỏng (nếu thích hợp):
1) giải thích cho việc lựa chọn dung môi chiết hoặc tá dược lỏng nếu không phải là loại được liệt kê trong TCVN 7391-12 (ISO 10993-12).
d) Động vật thử nghiệm:
1) loài/chủng được sử dụng;
2) số lượng, tuổi và giới tính của động vật;
3) nguồn bao gồm tình trạng vi sinh (ví dụ: rào cản được nâng lên, thông thường), điều kiện chỗ nuôi (nhiệt độ, độ ẩm, giường ngủ, ánh sáng, chế độ ăn uống, v.v.);
4) trọng lượng khi bắt đầu nghiên cứu.
e) Điều kiện thử nghiệm:
1) lý do để lựa chọn liều;
2) chi tiết về công thức/chuẩn bị mẫu thử; đạt được nồng độ; ổn định và đồng nhất nếu thích hợp;
3) chi tiết về việc đưa chất thử vào cơ thể;
4) chuyển đổi từ nồng độ mẫu thử (ppm) sang liều thực tế (mg/kg BW), nếu có thể áp dụng;
5) chi tiết về chất lượng thực phẩm, nước uống và chỗ ngủ.
f) Kết quả:
1) dữ liệu có thể được tóm tắt dưới dạng bảng, trình bày cho mỗi nhóm đối chứng và nhóm thử nghiệm số lượng động vật khi bắt đầu thử nghiệm, số lượng động vật có dấu hiệu lâm sàng bất lợi và số lượng động vật biểu hiện thay đổi trọng lượng cơ thể;
2) trọng lượng cơ thể/thay đổi trọng lượng cơ thể;
3) tiêu thụ thức ăn và nước uống, nếu có thể áp dụng;
4) số liệu phản ứng độc theo giới tính và mức liều, bao gồm các dấu hiệu độc tính;
5) bản chất, mức độ nghiêm trọng và thời gian quan sát lâm sàng (có thể thuận nghịch hay không);
6) đánh giá hành vi thần kinh, nếu có;
7) phép thử huyết học được sử dụng và kết quả với số liệu đối chứng liên quan, nếu có thể áp dụng;
8) các phép thử sinh hóa lâm sàng được sử dụng và kết quả với số liệu đối chứng liên quan, nếu có thể áp dụng;
9) phép thử phân tích nước tiểu được sử dụng và kết quả với số liệu đối chứng liên quan, nếu có thể áp dụng;
10) trọng lượng cơ thể cuối cùng và số liệu trọng lượng cơ quan, nếu có thể áp dụng;
11) phát hiện mổ xác;
12) mô tả chi tiết tất cả các kết quả mô bệnh học, nếu có thể áp dụng;
13) đánh giá kết quả thống kê, nếu được sử dụng và thảo luận về ý nghĩa sinh học của chúng.
g) Thảo luận về kết quả.
h) Kết luận.
i) Công bố đảm bảo chất lượng.
Nghiên cứu độc tính toàn thân cấp tính sẽ cung cấp thông tin về ảnh hưởng của phơi nhiễm cấp tính với chất thử. Phép ngoại suy kết quả nghiên cứu cho con người có giá trị ở một mức độ hạn chế nhưng nó có thể cung cấp thông tin hữu ích về phơi nhiễm cho phép.
Trong khi độc tính cấp tính liên quan đến các tác động bất lợi của liều đơn (hoặc phơi nhiễm hạn chế), một hình thức phơi nhiễm phổ biến hơn của con người đối với nhiều trang thiết bị y tế là ở dạng phơi nhiễm lặp lại hoặc liên tục. Ảnh hưởng từ phơi nhiễm lặp lại hoặc liên tục có thể có khả năng xảy ra do sự tích tụ hóa chất trong các mô hoặc bởi các cơ chế khác. Thử nghiệm dài hạn (bán cấp, cận lâm sàng, trường diễn) có thể xác định những tác động tiềm năng này.
Các phép thử độc tính toàn thân phơi nhiễm lặp lại cung cấp thông tin về các mối nguy hiểm đối với sức khỏe có khả năng phát sinh do phơi nhiễm kéo dài bằng cách lâm sàng đã định. Nó cũng có thể cung cấp thông tin về chế độ tác dụng gây độc của một chất bằng cách phơi nhiễm lâm sàng đã định.
Các nghiên cứu độc tính toàn thân phơi nhiễm lặp lại sẽ cung cấp thông tin chi tiết về tác dụng gây độc, cơ quan đích, khả năng thuận nghịch hoặc các tác động khác và có thể làm cơ sở cho việc ước tính độ an toàn. Kết quả của các nghiên cứu này cung cấp thông tin quan trọng được phản ánh trong phạm vi hướng dẫn của các nghiên cứu bệnh học lâm sàng và giải phẫu.
Các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại thường không cung cấp một tiêu chí thử lại. Thay vào đó, cỡ nhóm được thiết kế để phù hợp với đánh giá thống kê về các quan sát được ghi lại (xem Bảng 1).
Do thời lượng thay đổi cho các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại, các mẫu thử phải được chuẩn bị theo yêu cầu, để đảm bảo tính ổn định của chúng.
6.2.1 Chuẩn bị
Động vật trưởng thành và khỏe mạnh được thích nghi với điều kiện phòng thí nghiệm trong ít nhất 5 ngày trước khi thử nghiệm. Động vật sau đó được lấy ngẫu nhiên và chia thành các nhóm xử lý.
6.2.2 Động vật thực nghiệm
6.2.2.1 Chọn loài
Thông thường, sử dụng loài gặm nhấm (chuột cống trắng, chuột nhắt). Đặc điểm của mô hình (tuổi, cân nặng, v.v.) được quy định trong 4.2 và 4.3. Nếu sử dụng các loài không thuộc bộ gặm nhấm phải giải thích khoa học việc sử dụng này.
6.2.2.2 Số lượng và giới tính
Số lượng và loại nhóm, động vật trên mỗi nhóm và giới tính được quy định trong 4.5. Khi được chứng minh một cách khoa học, nên xem xét việc sử dụng động vật vệ tinh được xử lý ở mức liều cao cùng với các đối chứng vệ tinh trong một khoảng thời gian xác định trước ngoài cái chết nhân đạo cuối cùng. Nhóm này, cùng với đối chứng, có thể được sử dụng để kiểm tra các các tác động xử lý bao gồm khả năng thuận nghịch, tồn tại dai dẳng hoặc các tác dụng gây độc bị trì hoãn. Đối với các nghiên cứu cận lâm sàng, động vật vệ tinh phải được duy trì không ít hơn 28 ngày.
6.2.2.3 Điều kiện nuôi dưỡng
Nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong các buồng nuôi động vật thí nghiệm phải phù hợp với loài, ví dụ: (22 ± 3) °C và độ ẩm tương đối 30 % đến 70 %, đối với chuột cống trắng. Thông thường, tần số chiếu sáng nhân tạo nên là 12 h chiếu sáng và 12 h bóng tối.
Đối với việc nuôi dưỡng, có thể sử dụng chế độ ăn trong phòng thí nghiệm thương mại chuẩn với nguồn nước uống không hạn chế. Động vật nên được nuôi trong chuồng theo các nhóm giới tính hoặc nuôi riêng biệt, khi thích hợp, với sự giải thích; khi nuôi theo nhóm thì không được vượt quá năm con trong một chuồng.
6.2.3 Điều kiện thử nghiệm
6.2.3.1 Mức liều
Liều dùng để thử nghiệm độc tính của các trang thiết bị y tế phải được xác định liên quan đến kết quả đánh giá rủi ro, cân bằng liều phơi nhiễm lâm sàng với việc sử dụng các yếu tố an toàn, nếu có. Ngoại trừ việc xử lý bằng chất thử, động vật trong nhóm đối chứng phải được xử lý theo cách giống hệt với đối tượng của nhóm thử nghiệm.
Không giống như các nghiên cứu hóa học cổ điển về độc tính toàn thân phơi nhiễm lặp lại, các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại với các trang thiết bị y tế thường không mang lại hiệu quả liều đáp ứng, do đó, tác dụng độc ở cấp liều được nghiên cứu là không bắt buộc.
6.2.3.2 Quy trình
Động vật nên được cho liều lý tưởng trong 7 ngày/tuần trong suốt thời gian nghiên cứu. Đối với các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại dài hạn, việc cho liều trên cơ sở 5 ngày/tuần là chấp nhận được nhưng nên được ghi lại và giải thích.
6.2.4 Trọng lượng cơ thể
Số đo trọng lượng cơ thể nên được lấy ngay trước khi cho liều, hàng tuần sau khi cho liều đầu tiên nếu được chỉ định theo thời gian nghiên cứu và cuối thời điểm nghiên cứu.
6.2.5 Quan sát lâm sàng
Thời gian quan sát cho một nghiên cứu độc tính toàn thân liều lặp lại phải phù hợp với thời gian nghiên cứu. Cụ thể về tần suất và loại quan sát được quy định trong 4.10 và Phụ lục C.
Trong mọi trường hợp, các quan sát phải được thực hiện với tần suất và các hành động thích hợp được thực hiện, để giảm thiểu việc hao hụt động vật cho nghiên cứu, ví dụ: mổ xác hoặc làm đông lạnh những con vật được tìm thấy đã chết và cách ly hoặc gây chết nhân đạo cho những con vật yếu hoặc đang hấp hối. Các quan sát khi bị nhốt trong lồng phải bao gồm, nhưng không giới hạn ở những thay đổi ở da và lông, mắt và màng nhầy, cả hô hấp, tuần hoàn, hệ thống thần kinh tự động và trung ương, mô hình hoạt động và hoạt động nhận thức, sử dụng các mô tả được cung cấp trong Phụ lục C.
Thông thường, việc kiểm tra mắt bằng sử dụng một kính soi đáy mắt hoặc thiết bị phù hợp tương đương, nên được thực hiện trước khi đưa chất thử vào cơ thể và khi tại thời điểm kết thúc nghiên cứu, tốt nhất là ở tất cả các động vật nhưng ít nhất là trong các nhóm đối chứng và nhóm cho liều cao. Nếu phát hiện thấy thay đổi trong mắt thì phải kiểm tra tất cả các động vật. Các trường hợp không kiểm tra nên được ghi lại và giải thích.
6.2.6 Bệnh học
6.2.6.1 Bệnh học lâm sàng
Cần tiến hành các kiểm tra sau đây:
a) Huyết học, theo quy định trong Phụ lục D, phải xem xét kiểm tra tại cuối giai đoạn thử nghiệm. Tùy thuộc vào thời gian nghiên cứu, nên lấy mẫu thường xuyên hơn.
b) Xác định sinh hóa lâm sàng trên mâu nên được thực hiện vào cuối giai đoạn thử nghiệm. Tùy thuộc vào thời gian nghiên cứu, nên lấy mẫu thường xuyên hơn. Các vùng thử nghiệm được coi là phù hợp với tất cả các nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại là cân bằng điện giải, chuyển hóa carbohydrate và chức năng gan và thận. Việc lựa chọn các phép thử cụ thể có thể bị ảnh hưởng bởi các quan sát về phương thức hoạt động của chất thử. Các quyết định đề xuất được liệt kê trong Phụ lục D. Sinh hóa lâm sàng bổ sung có thể được sử dụng khi cần thiết để mở rộng quan sát các tác động quan sát được.
Phân tích nước tiểu (xem Phụ lục D) không cần thiết trên cơ sở thường quy mà chỉ khi có chỉ định dựa trên độc tính dự kiến hoặc quan sát được.
Dữ liệu trước đó cho các giá trị bình thường rất hữu ích để thiết lập các mức cơ sở và để so sánh với các đối chứng nghiên cứu đồng thời. Nếu dữ liệu cơ sở trước đó được coi là không đầy đủ, nên xem xét việc thu thập thông tin này cho động vật cùng tuổi, giới tính, chủng và nguồn, tốt nhất là trong cùng phòng thí nghiệm.
6.2.6.2 Bệnh học tổng quát
Tất cả các động vật phải được xử lý mổ xác toàn bộ, bao gồm kiểm tra bề mặt bên ngoài của cơ thể, tất cả các lỗ, và các khoang sọ, ngực và bụng và nội dung của chúng. Tuyến thượng thận, não, mào tinh hoàn, tim, thận, gan, buồng trứng, lách, tinh hoàn, tuyến ức và tử cung nên được cân ướt càng sớm càng tốt sau khi mổ xẻ để tránh bị khô và giảm giá trị cân. Các cơ quan và mô được liệt kê trong Phụ lục E nên được bảo quản trong môi trường phù hợp để kiểm tra mô bệnh học trong tương lai.
6.2.6.3 Mô bệnh học
a) Mô bệnh học tổng thể nên được thực hiện trên các cơ quan và mô từ động vật trong nhóm đối chứng và nhóm cho liều cao.
b) Tất cả các tổn thương toàn bộ cần được kiểm tra.
c) Phổi của động vật thuộc nhóm liều thấp và trung gian, nếu được sử dụng, phải được kiểm tra mô bệnh học để tìm bằng chứng về việc nhiễm bệnh, vì điều này cung cấp một đánh giá thuận tiện về tình trạng sức khỏe của động vật. Cân nhắc cũng nên được đưa ra để kiểm tra mô bệnh học của gan và thận trong các nhóm này. Kiểm tra mô bệnh học tiếp theo có thể không được yêu cầu thường xuyên trên động vật trong các nhóm này nhưng sẽ luôn được thực hiện trong các cơ quan cho thấy bằng chứng tổn thương ở nhóm cho liều cao.
d) Khi một nhóm vệ tinh được sử dụng, mô bệnh học có thể được thực hiện trên các mô và cơ quan được xác định là có tác dụng trong các nhóm được xử lý.
e) Nói chung, đối với các nghiên cứu trường diễn, nên sử dụng động vật sentinel để theo dõi sự xuất hiện của các tác nhân truyền nhiễm. Huyết thanh học hoặc mô học của các nhóm sentinel có thể được thực hiện theo chỉ định.
f) Trong quá trình lựa chọn các cơ quan cho mô bệnh học, cần xem xét đến đặc tính hóa học của vật liệu trang thiết bị. Ví dụ, nếu trang thiết bị được phủ bằng thuốc/tác nhân dược phẩm, thì các cơ quan đích cho các hóa chất đó nên được nghiên cứu trên động vật được xử lý cho bất kỳ tác dụng phụ nào.
6.3.1 Quy định chung
Dữ liệu có thể được tóm tắt dưới dạng bảng, cho thấy đối với mỗi nhóm thử nghiệm, số lượng động vật khi bắt đầu thử nghiệm, số lượng động vật thể hiện thương tổn, các loại tổn thương và tỷ lệ động vật biểu hiện từng loại tổn thương. Đánh giá thống kê nên được thực hiện nhưng cần xem xét liên quan đến sinh học. Các phương pháp thống kê được chấp nhận chung nên được sử dụng và lựa chọn trong giai đoạn thiết kế nghiên cứu.
6.3.2 Đánh giá kết quả
Những phát hiện của một nghiên cứu phơi nhiễm lặp lại nên được đánh giá kết hợp với những phát hiện của các nghiên cứu trước đó và xem xét về mặt tác dụng gây độc và các phát hiện mổ xác và mô bệnh học. Việc đánh giá phải bao gồm mối quan hệ giữa liều lượng chất thử và tác dụng quan sát được. Các tác động quan sát bao gồm các bất thường về hành vi và lâm sàng, tổn thương toàn bộ, thay đổi cực nhỏ, ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong và bất kỳ tác dụng nào khác cần được đánh giá về ý nghĩa sinh học của chúng. Đánh giá các hiệu ứng quan sát cũng nên xem xét mức độ phù hợp của chúng với con người.
Thông tin được nêu trong 5.4 phải được nêu trong báo cáo tổng kết đối với nghiên cứu độc tính toàn thân phơi nhiễm lặp lại. Ngoài ra, các thông tin sau phải được cung cấp:
- phép thử huyết học đã sử dụng và kết quả với dữ liệu đối chứng liên quan;
- phép thử sinh hóa lâm sàng đã sử dụng và kết quả với dữ liệu đối chứng liên quan;
- phát hiện mô bệnh học;
- đánh giá thống kê các kết quả nếu sử dụng và thảo luận về ý nghĩa sinh học của kết quả.
Nghiên cứu độc tính toàn thân dài hạn sẽ cung cấp thông tin về ảnh hưởng của việc phơi nhiễm nhiều lần lặp lại với một chất thử. Phép ngoại suy kết quả nghiên cứu cho con người có giá trị ở một mức độ hạn chế nhưng nó có thể cung cấp thông tin hữu ích về sự phơi nhiễm của con người.
Các cách đưa mẫu thử vào cơ thể
A.1 Khái quát
Một số cách đưa mẫu thử vào cơ thể được liệt kê trong A.2 đến A.10. Các cách khác để đưa mẫu thử vào cơ thể có thể thích hợp hơn về mặt lâm sàng và nên được sử dụng. Các cách đưa mẫu thử vào cơ thể thích hợp nhất phải được sử dụng. Nếu dùng cách thay thế để đưa mẫu thử vào cơ thể thì phải giải thích. Nên có sự tư vấn của các chuyên gia khi thiết kế nghiên cứu phù hợp.
A.2 Ngoài da
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường ngoài da có thể thích hợp với các trang thiết bị sử dụng bề mặt. Phải xem xét đến hạn chế của việc đưa mẫu thử vào miệng động vật.
A.3 Cấy ghép
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường cấy ghép có thể thích hợp với các trang thiết bị cấy ghép. Phép thử có thể thích hợp cho thử nghiệm trực tiếp một vật liệu bằng cách ứng dụng đến một vùng chung hoặc riêng. Hình dạng và cấu trúc của vật thử cần phải được xem xét. Các phương pháp cấy ghép có thể tìm thấy trong TCVN 7391-6 (ISO 10993-6).
A.4 Hít vào
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường thở có thể thích hợp với các trang thiết bị có môi trường tiếp xúc cho phép hoá chất dễ bay hơi qua, hoặc với mẫu thử dạng hơi/hạt có thể hít vào. Phương pháp cụ thể cho cách này có thể tìm thấy trong hầu hết các văn bản chuyên dùng nhất về độc học do hít vào.
A.5 Nội bì
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường nội bì có thể thích hợp với các trang thiết bị có môi trường tiếp xúc nội bì cho phép hoá chất thấm qua. Mẫu thử thường được đưa trực tiếp vào vùng nội bì bằng cách tiêm. Sử dụng nhiều vị trí xử lý phải được mô tả và chứng minh rõ ràng.
A.6 Trong cơ
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường trong cơ có thể thích hợp với các trang thiết bị có môi trường tiếp xúc là mô cơ cho phép hoá chất thẩm qua. Mẫu thử thường được đưa trực tiếp vào mô cơ bằng cách tiêm hoặc cấy phẫu thuật. Các vị trí cần được chọn lựa để giảm thiểu sự mất chức năng hoặc khả năng đau do phá hủy thần kinh bởi căng sợi cơ do mẫu thử được tiêm vào hoặc được cấy ghép. Các vị trí phải được luân phiên nhau cho các nghiên cứu liều lặp lại, ví dụ các công thức không chứa dịch có thể giữ lại như kho chứa trong vòng hơn 24 h. Sử dụng nhiều vị trí xử lý phải được mô tả và chứng minh rõ ràng.
A.7 Trong bụng
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường vào bụng có thể thích hợp với các trang thiết bị có mới trường tiếp xúc là đường dịch hoặc khoang bụng cho phép hoá chất thấm qua. Đây cũng là cách thích hợp khi chất chiết không nên đưa theo đường tĩnh mạch, chẳng hạn như với các chất chiết dầu không phân cực và khi có các hạt. Cách này thích hợp để lọc dịch tiêm tĩnh mạch. Mẫu thử thường được đưa trực tiếp vào khoang bụng. Tính toán tần suất liều lượng nên xem xét đến vật thử được đưa bằng cách này được hấp thụ chủ yếu qua tuần hoàn bàng hệ và chính vì vậy, phải đi qua gan trước khi vào hệ tuần hoàn chung. Phải thận trọng không tiêm vào dạ dày hoặc đường ruột.
A.8 Trong tĩnh mạch
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường tĩnh mạch có thể thích hợp với các trang thiết bị có môi trường tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với đường dịch lỏng hoặc máu cho phép hoá chất thấm qua. Các mẫu thử thường được đặt vào hoặc truyền trực tiếp vào hệ mạch. Nếu có các hạt thì phải xem xét việc chuyển bằng cách qua đường trong bụng hoặc lọc mẫu. Để đánh giá vật liệu nano, bản thân sự phân tán vật liệu nano có thể được xem xét để tiêm tĩnh mạch. Thể tích liều khuyến nghị và tốc độ truyền cho các nghiên cứu trong tĩnh mạch với các loài động vật phòng thí nghiệm đã sử dụng phổ biến nhất được liệt kê trong Phụ lục B.
Phải thận trọng để giảm thiểu khả năng tiêm mẫu thử ra ngoài mạch. Tiêm thường mất 5 min hoặc nhiều hơn và phải xem xét việc sử dụng một kim tiêm bướm hoặc ống thông dò tĩnh mạch.
A.9 Miệng
Các phép thử độc tính toàn thân qua đường miệng có thể thích hợp với các trang thiết bị tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với niêm mạc miệng, hoặc với các sản phẩm có các ứng dụng trong ruột khác. Mẫu thử thường được đưa vào bằng ống đưa thẳng vào dạ dày. Động vật thực nghiệm thường bị nhịn đói trước khi đưa mẫu thử vào. Thời gian nhịn đói có thể từ vài giờ đến qua đêm, với khoảng thời gian ngắn hơn cho các động vật có tốc độ trao đổi chất cao hơn. Tiếp theo giai đoạn bỏ đói, động vật phải được cân và sau đó chỉ được đưa một liều mẫu thử vào dựa trên trọng lượng cơ thể. Sau khi đưa mẫu thử vào, có thể không bổ sung thức ăn 3 h đến 4 h. Khi đưa một liều thành từng phần nhỏ qua một giai đoạn nhất định thì có thể cần cung cấp cho động vật thức ăn và nước uống phụ thuộc vào độ dài của giai đoạn.
A.10 Dưới da
Các phép thử độc tính toàn thân bằng con đường dưới da có thể thích hợp với một trang thiết bị có môi trường tiếp xúc dưới da cho phép hoá chất thấm qua. Các mẫu thử thường được đưa trực tiếp vào vùng dưới da bằng cách tiêm hoặc cấy ghép. Sử dụng nhiều vị trí xử lý phải được mô tả và chứng minh rõ ràng.
B.1 Khái quát
Các nguyên tắc của nghiên cứu động vật nhân đạo đòi hỏi tất cả các nỗ lực hợp lý được thực hiện để giảm thiểu hoặc loại bỏ tất cả các tác động sinh lý hoặc bệnh lý bất lợi. Các giá trị được liệt kê trong Bảng B.1 được dự định là thông tin và thể hiện các giới hạn tối đa được báo cáo trong tài liệu để truyền liều duy nhất. Các giá trị tối đa này không nên được coi là một khuyến nghị trong tiêu chuẩn này, nhưng các nhà nghiên cứu nên áp dụng các giới hạn trên liên quan đến các yếu tố như trọng lượng cơ thể/diện tích bề mặt, tốc độ đưa mẫu thử vào cơ thể, các tính chất lý hoá và sinh học của mẫu thử và chủng động vật. Đối với các nỗ lực đưa mẫu thử vào cơ thể, nên giảm thiểu thể tích liều khi xem xét các yếu tố điều chỉnh này.
Bảng B.1 - Thể tích liều đơn tối đa (ml/kg) để đưa mẫu thử vào cơ thể
Loài |
Dưới da |
Trong cơ |
Trong bụng |
Nuốt qua ống |
Tĩnh mạch |
ml/kg |
ml/kg |
ml/kg |
ml/kg |
ml/kg |
|
Chuột cống trắng |
20 |
1 |
20 |
50 |
40 |
Chuột nhắt |
50 |
2 |
50 |
50 |
50 |
Thỏ |
10 |
1 |
20 |
20 |
10 |
Chó |
2 |
1 |
20 |
20 |
10 |
Khỉ |
5 |
1 |
20 |
15 |
10 |
Quy định của từng quốc gia có thể thay thế khối lượng tối đa được liệt kê ở trên. Đưa mẫu thử vào trong cơ ở loài gặm nhấm không vượt quá 0,1 ml/vị trí (chuột nhắt) và 0,2 ml/vị trí (chuột cống trắng), trong khi thể tích liều tĩnh mạch không được vượt quá 1 ml/min. |
B.2 Tham khảo thể tích liều
Xem Tài liệu tham khảo[11], [12], [13], [14], [15], [16].
Các dấu hiệu và quan sát lâm sàng thường gặp
Bảng C.1 - Các dấu hiệu và quan sát lâm sàng thường gặp
Quan sát lâm sàng |
Dấu hiệu quan sát |
Hệ thống liên quan |
Hô hấp |
Khó thở (thở khác thường, thở hổn hển), ngừng thở, chứng xanh tím, thở gấp, chảy mũi |
CNS, phổi, tim |
Hoạt động thần kinh vận động |
Tăng/giảm trạng thái ngủ lơ mơ, mất thăng bằng, chứng giữ nguyên thế, sự mất điều hoà, vận động khác thường,kiệt sức, rùng mình, tạo bó |
CNS, vận động sinh dưỡng, giác quan, thần kinh cơ, thần kinh tự chủ |
Rối loạn |
Chứng giật rung, trương lực, giật rung- trương lực, ngạt, uốn người ra sau |
CNS, thần kinh cơ, thần kinh tự chủ, hô hấp |
Phản xạ |
Màng sừng, đứng thẳng, xúc giác cơ, ánh sáng, phản xạ giật mình |
CNS, giác quan, thần kinh tự chủ, thần kinh cơ |
Dấu hiệu thị giác |
Chảy nước mắt, thu hẹp đồng tử, tật giãn đồng tử, lồi mắt, chứng sụp mí mắt, mờ đục, viêm mống mắt, viêm màng kết, giãn màng nháy |
Thần kinh tự chủ, kích ứng |
Dấu hiệu tim mạch |
Nhịp tim chậm, nhịp tim nhanh, chứng loạn nhịp, sự giãn mạch, sự co mạch |
CNS, thần kinh tự chủ, tim mạch, phổi |
Tiết nhiều nước bọt |
Vượt mức |
Thần kinh tự chủ |
Sự dựng lông |
Lông bờm xờm |
Thần kinh tự chủ |
Chứng mất cảm giác đau |
Giảm phản ứng |
CNS, giác quan |
Tiếng cơ |
Giảm trương lực, tăng trương lực |
Thần kinh tự chủ |
Dạ dày - ruột |
Phân nhão, ỉa chảy, nôn, tiểu tiện nhiều, táo bón |
CNS, thần kinh tự chủ, giác quan, vận động GI, thận |
Da |
Phù, ban đỏ |
Phá hủy mô, kích ứng |
Đề nghị các phép đo huyết học, hóa học lâm sàng và phân tích nước tiểu
D.1 Huyết học
- Khả năng đông máu (PT, APTT)
- Nồng độ haemoglobin
- Haematocrit
- Đếm tiểu cầu
- Đếm tế bào hồng cầu
- Đếm tế bào bạch cầu
- Chênh lệch WBC
D.2 Hóa lâm sàng
- Albumin
- ALP
- ALT
- AST
- Canxi
- Clorit
- Cholesterol
- Creatinin
- GGT
- Glucoza
- Photphat vô cơ
- Kali
- Natri
- Bilirubin tổng số
- Protein tổng số
- Triglycerit
- Nitơ urê
- Các enzim bổ sung phù hợp về mặt khoa học
- Mức độ globulin miễn dịch có thể được xem như một chỉ thị của độ độc hệ miễn dịch
D.3 Phân tích nước tiểu (lấy mẫu theo thời gian, ví dụ: 16 h đến 24 h)
- Dạng
- Bilirubin (sắc tố màu da cam)
- Glucoza
- Keton
- Máu huyền bí
- Protein
- Cặn
- Khối lượng riêng hoặc độ thẩm thấu
- Thể tích
- Các phép thử khác thích hợp về khoa học nếu vật thử bị nghi là gây ra độc tính cho các cơ quan cụ thể (nhìn chung cần lấy mẫu để lạnh).
Danh sách các cơ quan được đề xuất để đánh giá mô bệnh học
Cùng với đánh giá mô bệnh học, các mô/cơ quan đánh dấu hoa thị (*) bên dưới phải được cân, với các cơ quan khác cũng nên cân nếu thích hợp về mặt khoa học, Các phát hiện lâm sàng và phát hiện khác có thể gợi ý sự cần thiết để kiểm tra thêm các mô. Ngoài ra, bất kỳ cơ quan nào được xem có thể là cơ quan đích dựa trên các đặc điểm đã biết của chất thử phải được bảo quản.
- Mô bệnh học tổng quát phải được tiến hành trên các cơ quan và mô đã được bảo quản của tất cả các con vật trong nhóm liều đối chứng và nhóm liều cao nhất. Các kiểm tra này cả mô/cơ quan đích đến đặc hiệu nếu cần thiết phâi được mở rộng ra các con vật của các nhóm liều khác nếu những thay đổi liên quan đến xử lý được quan sát trong nhóm liều cao nhất. Tuyến thượng thận*
- Toàn bộ vùng tổn thương (bao gồm cả vị trí xử lý)
- Động mạch chủ
- Xương ống (xương đùi, xương sườn hoặc xương ức)
- Não* (các phần đại diện gồm não, tiểu não và học cầu)
- Manh tràng
- Kết tràng
- Tá tràng
- Mào tinh hoàn*
- Thực quản
- Mắt
- Túi mật (nếu có)
- Tim*
- Hồi tràng
- Ruột chay
- Thận*
- Gan*
- Phổi và khí quản (được bảo quản bằng cách thổi phồng với chất cố định và sau đó ngâm nước)
- Hạch lympho (tại chỗ để bao trùm cả vị trí đưa mẫu thử vào cơ thể và xa để bao trùm các tác động toàn thân)
- Tuyến vú (con cái)
- Cơ (cơ vân)
- ống mũi (cho các nghiên cứu hít vào)
- Dây thần kinh (vùng hông hoặc chày) có thể ưu tiên gần với cơ
- Buồng trứng*
- Tuyến tụy
- Tuyến cận giáp
- Tuyến yên
- Tuyến tiền liệt
- Trực tràng
- Tuyến nước bọt
- Túi tinh
- Da
- Tủy sống
- Lá lách*
- Mỏ ác
- Dạ dày
- Tinh hoàn*
- Tuyến ức*
- Tuyến giáp
- Khí quản
- Bóng đái
- Tử cung* (bao gồm cổ và ống)
- Âm đạo
F.1 Quy định chung
Nhiều trang thiết bị y tế sử dụng các vật liệu thường được sử dụng chỉ khác nhau về số lượng hoặc loại phụ gia hóa học, phương pháp chế biến hoặc khử trùng.
Khi đánh giá rủi ro độc tính của các trang thiết bị chiết/trang thiết bị có thể xác định rằng đánh giá an toàn/tương thích sinh học đối với các tác động toàn thân tiềm tàng là cần thiết để đánh giá mô bệnh học giảm. Trong mô hình này, một số lượng hạn chế các cơ quan/mô đích tiềm năng được kiểm tra bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận theo từng cấp.
F.2 Quy trình
Tất cả các mô được chỉ định trong Phụ lục E nên được thu thập và bảo quản.
Phân tích mô bệnh học hạn chế nên được hoàn thành cho tất cả các cơ quan/mô Cấp I được liệt kê trong Bảng F.1.
Nếu phát hiện bất thường hoặc nghi vấn được quan sát trong các mô Cấp I, hoặc trong bệnh học lâm sàng đồng thời (hóa học lâm sàng và huyết học), hãy chuyển đến Cấp II (kiểm tra danh sách đầy đủ các cơ quan/mô trong Phụ lục E).
Bảng F.1 - Danh sách các cơ quan cho mô bệnh học giới hạn
Hệ thống cơ quan |
Các cơ quan/mô (khi loài áp dụng) của hệ thống |
Mô cấp I |
Tuần hoàn |
Tim, động mạch, tĩnh mạch, mao mạch, máu |
Tim |
Tiêu hóa |
Miệng, tuyến nước bọt, thực quản, gan, dạ dày, túi mật, tuyến tụy, ruột (tá tràng, đại tràng ngang, đại tràng tăng dần, đại tràng giảm dần, hồi tràng, manh tràng, đại tràng sigma), trực tràng, hậu môn |
Gan |
Nội tiết |
Vùng dưới đồi, tuyến yên, tuyến giáp, tuyến cận giáp, tuyến thượng thận, tuyến tùng, tuyến tụy |
Tuyến thượng thận |
Bài tiết |
Thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo, da, phổi, trực tràng |
Thận |
Toàn diện |
Da, mô dưới da, tóc, móng |
Da |
Bạch huyết |
Hạch bạch huyết, amidan, adenoids, tuyến ức, lách |
Lách |
Cơ bắp |
Bắp tay, cơ tam đầu, deltoids, gluteus, gân kheo, gân |
Cơ bắp |
Thần kinh |
Não, tủy sống, dây thần kinh, dây thần kinh ngoại biên, mắt, tai |
Óc |
Sinh sản |
Buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo, tuyến vú, tinh hoàn, ống dẫn tinh, túi tinh, tuyến tiền liệt, dương vật |
Tinh hoàn, buồng trứng |
Hô hấp |
Mũi, khoang mũi, hầu họng, thanh quản, khí quản, phế quản, phổi, cơ hoành |
Phổi, phế quản |
Bộ xương |
Xương đùi, xương cánh tay, xương quay, xương trụ, xương sọ, xương ức, xương đòn, xương mác, xương chày, đốt sống, xương bàn chân, xương chậu, xương cụt, tủy, sụn, dây chằng |
Femur hoặc xương ức |
Tạo máu |
Tủy xương |
Femur, xương sườn hoặc xương ức |
Khác |
Tổn thương gộp bao gồm cả nơi xử lý |
Theo quan sát |
Thông tin về chất gây sốt do trung gian vật liệu
Gây sốt là khả năng của một tác nhân hóa học hoặc chất khác để tạo ra một phản ứng sốt. Phản ứng sốt có thể qua trung gian vật chất, qua trung gian nội độc tố hoặc qua trung gian bởi các chất khác, chẳng hạn như các thành phần của vi khuẩn gram dương và nấm. Tiêu chuẩn này quan tâm đến gây sốt do vật liệu.
Không cần thiết phải thử khả năng gây sốt in vivo của tất cả các trang thiết bị y tế mới . Tuy nhiên, các vật liệu có chứa các chất trước đây đã gây ra phản ứng sốt và/hoặc các thực thể hóa học mới trong đó chưa xác định được tiềm năng gây sốt về tính chất gây sốt thì phải được đánh giá khả năng gây sốt qua trung gian vật liệu. Đối với các trang thiết bị y tế có thể được sử dụng trong một sản phẩm kết hợp, việc thử nghiệm để đáp ứng tính tự nhiên của sản phẩm nên được xem xét. Nhiễm nội độc tố có thể là một nguồn của phản ứng gây sốt, và không được nhầm lẫn với phản ứng gây sốt qua trung gian vật liệu.
- Gây sốt do trung gian nội độc tố
Dạng gây sốt này có nguồn gốc từ nội độc tố có hoạt tính sinh học của vi khuẩn gram âm, thường là nhiễm chất gây sốt trong quá trình sản xuất các trang thiết bị y tế, được đánh giá bằng cách đo lượng nội độc tố trong trang thiết bị bằng một phép thử LAL (Limulus Amebocyte Lysate) mà không thực hiện phép thử trên thỏ (xem Tài liệu tham khảo[3]).
- Gây sốt do trung gian vật liệu
Loại gây sốt này bắt nguồn từ các yếu tố không liên quan đến nội độc tố. Sau đây là danh mục các chất được biết là tạo ra phản ứng sốt không phải là nội độc tố:
- chất gây sốt nội sinh (ví dụ: IL-1, IL-6, TNFα, INF-γ);
- tiền liệt tuyến;
- các chất cảm ứng (ví dụ: axit polyadenylic, axit polyuridylic, axit polybionosinic và axit polyribocytidylic);
- các chất phá hủy chức năng của trung tâm điều nhiệt (ví dụ: LSD, cocaine, morphin);
- các tác nhân tách chiết của quá trình phosphoryl oxy hóa (ví dụ: 4, 6-dinitro-o-cresol, dinitrophenol, axit picric);
- N-phenyl—naphthylamine và aldo-α-naphthylamine (cơ chế gây sốt chưa được biết);
- ngoại độc tố của vi khuẩn (ví dụ: TSST-1, SEA, Spe F, Spe C);
- chất truyền dẫn thần kinh (ví dụ: noradrenaline, serotonin);
- các kim loại như muối niken, trong một số trường hợp.
Để phát hiện khả năng gây sốt do trung gian vật liệu, phép thử gây sốt trên thỏ có phạm vi rộng để phát hiện hoạt tinh gây sốt hiện được khuyến nghị. Các phương pháp để thực hiện phép thử gây sốt trên thỏ có thể thấy trong Dược điển Hoa Kỳ, Dược điển Châu Âu và Dược điển Nhật Bản. Phép thử LAL không phù hợp để xác định khả năng gây sốt của những chất này. Nếu các phương pháp khác để phát hiện khả năng gây sốt không phải do nội độc tố được phát triển và được đánh giá xác nhận thì các phương pháp này phải được xem xét để thay thế phép thử trên thỏ.
Các thành tựu gần đây là các phép thử dựa trên sự giải phóng cytokine bởi các tế bào đơn nhân/đại thực bào có khả năng phát hiện sự gây sốt liên quan đến các thành phần của vi khuẩn gram âm, gram dương và nấm. Các phép thử in vitro này không được đánh giá xác nhận về khả năng gây sốt do trung gian vật liệu.
Chuột cống trắng bán trường diễn - Hai đường tiêm truyền không qua đường miệng
H.1 Quy định chung
Nhiều trang thiết bị cần phép thử độc tính bán cấp/bán trường diễn là các trang thiết bị cấy ghép và do đó, tuyến phơi nhiễm phù hợp nhất trên lâm sàng trong mô hình động vật là thông qua cấy ghép. Tuy nhiên, khi trang thiết bị không dành cho cấy ghép, việc phơi nhiễm với trang thiết bị thông qua việc định lượng dịch chiết là một lựa chọn. Tiêm truyền đồng thời cả dịch chiết phân cực và không phân cực không qua đường miệng có thể là một lựa chọn.
Trên lâm sàng, khi một trang thiết bị y tế được cấy ghép hoặc giao tiếp bên ngoài, việc phơi nhiễm với dịch chiết mẫu thử nghiệm phân cực có thể xảy ra đồng thời. Một cách tiếp cận để đánh giá độc tính là tiêm cả dịch chiết phân cực và không phân cực vào cùng một động vật. Phơi nhiễm này mô phòng chặt chẽ hơn trải nghiệm lâm sàng về tổng phơi nhiễm dịch chiết. Mô hình này có thể không phù hợp khi có nhu cầu nghiên cứu các cách đưa mẫu thử vào cơ thể một cách riêng biệt. Trong trường hợp đó, Điều 6 cần được xem xét.
Các tham số liều khuyến nghị cho hai đường tiêm truyền không qua đường miệng được quy định trong Bảng H.1.
Bảng H.1 - Các thông số liều khuyến cáo
Số lượng động vật/giới/nhóma |
Cách đưa vào cơ thể |
Liều |
||
Thể tích ml/kgb |
Tần số Ngày nghiên cứu |
Tốc độ ml/min |
||
6 |
Truyền tĩnh mạch |
10 |
Hàng ngày trong 14 ngày |
≤ 2 |
Nội soi |
5c |
1, 4, 7, 10, 13 |
Bolus chậm |
|
a Động vật đối chứng tá dược lỏng (6/giới) nên được dùng tương tự. b Thể tích được đề nghị. c Dầu mè được ưa thích. d Ngày cho liều có thể bắt đầu vào ngày 0. |
H.2 Quy trình
Các động vật thử nghiệm được định lượng bằng dịch chiết mẫu thử phân cực, và các động vật đối chứng được cho liều với tá dược lỏng phân cực, tiêm tĩnh mạch trong 7 ngày/tuần trong suốt thời gian nghiên cứu (tức là 14 liều). Đối với các mẫu thử nghiệm không phân cực, các động vật thử nghiệm tương tự được cho liều với dịch chiết mẫu thử nghiệm không phân cực và các động vật đối chứng được cho liều với tá dược lỏng không phân cực, tiêm trong màng bụng mỗi ngày thứ ba trong suốt thời gian nghiên cứu (tức là 5 liều).
H.3 Thể tích liều và tần suất giải thích
H.3.1 Tiêm tĩnh mạch
Bảng B.1 mô tả thể tích liều tối đa để đưa mẫu thử vào cơ thể khi cần một hoặc một số lượng rất hạn chế các phương pháp xử lý tiêm tĩnh mạch. Đối với việc đưa mẫu thử vào cơ thể lặp lại hàng ngày hoặc định kỳ theo bất kỳ cách nào, khối lượng mẫu thử phải được giảm. Phép thử LASA (xem Tài liệu tham khảo[17]) khuyến nghị thể tích liều tiêm tĩnh mạch tối đa 5 ml/kg khi tiêm bolus ở chuột cống trắng được thực hiện trong một khoảng thời gian tương đối ngắn (dưới 1 min) và cho một lần dùng hàng ngày theo thói quen cơ sở (tốc độ tiêm ≤ 2 ml/min). Đối với việc tiêm tĩnh mạch lặp lại dịch chiết trang thiết bị y tế, thể tích liều 10 ml/kg được coi là không có khả năng gây căng thẳng quá mức ở động vật, xem Tài liệu tham khảo[13].
H.3.2 Màng bụng
Bảng B.1 mô tả thể tích liều tối đa để đưa mẫu thử vào cơ thể khi cần một hoặc một số lượng rất hạn chế các phương pháp xử lý trong phúc mạc. Kinh nghiệm hiện tại chỉ ra rằng 5 ml/kg dịch chiết dầu mè được cung cấp không liên tục được dung nạp tốt. Bằng chứng đầy đủ cho thấy thể tích còn sót lại sau phúc mạc (PRV) của thuốc tiêm không phải nước 5ml/kg đến 10 ml/kg có thể tồn tại đến ba ngày. Do đó, đối với việc tiêm lặp lại trong dịch chiết trang thiết bị y tế không cực, khi dùng đồng thời với tiêm tĩnh mạch 10 ml/kg, thể tích liều 5 ml/kg được coi là không thể gây căng thẳng quá mức ở động vật và thể hiện thể tích phơi nhiễm kéo dài chấp nhận được đối với dịch chiết không phân cực.
Một số biến chứng của cách đưa vào cơ thể trong phúc mạc được ghi nhận tốt. Bao gồm chảy máu tại chỗ tiêm, liệt ruột do tiêm chất, rách cơ quan bụng, viêm phúc mạc và tiêm vào đường tiêu hóa hoặc bàng quang. Về vấn đề này, tần suất tiêm trong màng bụng sai lầm của các nhà nghiên cứu lành nghề đã được báo cáo nằm trong khoảng từ 11 % đến 20 % (xem Tài liệu tham khảo[18]). Theo quan điểm này, và với việc xem xét PRV và khả năng tăng thể tích tiêm trong màng bụng với liều quá thường xuyên, một kế hoạch đưa vào cơ thể hàng tuần ba lần được coi là không thể gây ra căng thẳng quá mức ở động vật và thể hiện tần suất phơi nhiễm kéo dài chấp nhận được đối với thuốc tiêm không phải nước.
Các khía cạnh chung của thiết kế nghiên cứu được đề cập trong Điều 6.
Thư mục tài liệu tham khảo
1. Tài liệu chung
[1] U.S./EPA PB 86/108958 and 89/124077
[2] U.S./FDA Toxicological principles for the safety assessment of direct food additives, 1982
[3] U.S. Code of Federal Regulation 1500.40: Method of Testing Toxic Substances
[4] United States Pharmacopoeia 26: Biological Reactivity Tests, In vivo; The National Formulary 21, Rockville, MD; Pharmacopoeial Convention, 2003, pp. 2028-2032
[5] ASTM F619-03, standard Practice for Extraction of Medical Plastics
[6] SN 119800:1990, Biological Evaluation of Dental Materials
[7] European Pharmacopoeia 4th Edition, 2002
[8] MHLW Notification No. 0213001(2003.02.13): Principles for Biological Safety Evaluation of Medical Devices
[9] HALLE, W. (2003) The Registry of Cytotoxicity: Toxicity testing in cell cultures to predict acute toxicity (LD50) and to reduce animal testing, ATLA 31:89-98
2. Thể tích liều tham khảo
[10] HULL, R.M. Guideline limit volumes for dosing animals in the preclinical stage of safety evaluation, Human and Environmental Toxicology, 1995, 14, pp. 305-307
[11] DERELANKO, M.J. and HOLLINGER, M.A. CRC Handbook of Toxicology, CRC Press, NY, 2nd edition, 2001, p. 98
[12] DIEHL, K.-H. et al. A good practice guide to the administration of substances and removal of blood, including routes and volumes, J. Applied Toxicology, 21, 2001, pp. 15-23
[13] MORTON, D. et al. Effects of infusion rates in rats receiving repeated large volumes of intravenous saline solution, Laboratory Animal Sciences, 47, 1997, pp. 656-659
[14] RICHMOND, J.D. Dose limit volumes: The United Kingdom view — past and present. Presented at the Humane Society of the United States — Refinement in Toxicology Testing: Dosing Data: Volume and Frequency, March 14, 1999, New Orleans, LA
[15] MORTON, D.B. et al. Refining procedures for the administration of substances. Report of the BVAAWF/TRAME/RSPCA/UFAW Joint Working Group on Refinement, Laboratory Animals, 35, 2001, pp 1-41
Mục lục
Lời nói đầu
Lời giới thiệu
1 Phạm vi áp dụng
2 Tài liệu viện dẫn
3 Thuật ngữ và định nghĩa
4 Xem xét chung
5 Độc tính toàn thân cấp tính
6 Độc tính toàn thân phơi nhiễm lặp lại (Độc tính toàn thân bán cấp tính, bán trường diễn và trường diễn)
Phụ lục A (tham khảo) Các cách đưa mẫu thử vào cơ thể
Phụ lục B (tham khảo) Thể tích liều
Phụ lục C (tham khảo) Các dấu hiệu và quan sát lâm sàng thường gặp
Phụ lục D (tham khảo) Đề nghị các phép đo huyết học, hóa học lâm sàng và phân tích nước tiểu
Phụ lục E (tham khảo) Danh sách các cơ quan được đề xuất để đánh giá mô bệnh học
Phụ lục F (tham khảo) Danh mục các cơ quan về mô bệnh học giới hạn cho các trang thiết bị y tế được thử nghiệm độc tính toàn thân
Phụ lục G (tham khảo) Thông tin về chất gây sốt do trung gian vật liệu
Phụ lục H (tham khảo) Chuột cống trắng bán trường diễn - Hai đường tiêm truyền không qua đường miệng
Thư mục tài liệu tham khảo
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.