BỘ
TÀI CHÍNH |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 58-TC/TCT |
Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 1997 |
Căn cứ Nghị định số 193/CP
ngày 29/12/1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ;
Căn cứ Điều 10, Điều 11 Nghị định 60/CP ngày 5/7/1994 và Nghị định số 45/CP ngày
3/8/1996 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại độ thị;
Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 19 TC/TCT ngày 16/3/1995
của Bộ Tài chính về lệ phí trước bạ như sau:
a) Chủ nhà, đất đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất do cơ quan thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 10, Nghị định số 60/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ cấp, nay được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng (không thay đổi chủ tài sản) thì không phải nộp lệ phí trước bạ.
b) Chủ nhà, đất chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp (quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 10 Nghị định số 60/CP ngày 5/7/1994) thì phải nộp lệ phí trước bạ theo quy định tại Nghị định số 193/CP ngày 29/12/1994 trước khi đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước, bao gồm các trường hợp sau đây:
- Chủ nhà, đất có các giấy tờ hợp lệ như giấy phép xây dựng nhà, giấy chứng nhận (hoặc xác nhận) việc mua bán, nhượng, đổi, cho, thừa kế, giao đất hoặc cấp của cơ quan có thẩm quyền, nhưng chưa đăng ký và chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nêu tại Khoản 1, Khoản 2, Điều 10 Nghị định số 60/CP ngày 5/7/1994 cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất (trừ trường hợp đất được Nhà nước giao lần đầu mà người sử dụng đất đã nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật).
- Chủ nhà không có hoặc không đủ giấy tờ hợp lệ về nhà ở, đất ở theo quy định tại Khoản 3, Điều 10, Nghị định số 60/CP ngày 05/7/1994 và Điều 1, Nghị định 45/CP ngày 3/8/1996 của Chính phủ;
Riêng trường hợp đất ở tại đô thị, đã được sử dụng làm đất ở ổn định sau ngày 18/12/1980, không có giấy tờ hợp lệ, nay xét phù hợp với quy hoạch, không có tranh chấp, chủ nhà đất được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và phải nộp 20% hoặc 100% tiền sử dụng đất theo quy định tại Nghị định số 45/CP ngày 3/8/1996 của Chính phủ thì được coi như đất được Nhà nước giao lần đầu, đã nộp tiền sử dụng đất và không phải nộp lệ phí trước bạ đất, nhưng vẫn phải nộp lệ phí trước bạ nhà (nếu có). Trường hợp chủ nhà đất chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác thì người nhận nhà, đất phải nộp lệ phí trước bạ tính trên toàn bộ trị giá nhà, đất.
c) Để đẩy nhanh tiến độ hợp thức hoá quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất thì trường hợp chủ nhà, đất thuộc đối tượng nêu tiết b, điểm này làm đơn xin hợp thức hoá quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất chỉ phải nộp lệ phí trước bạ một lần cho chính chủ nhà, đất đứng tên hợp thức hoá (không bị truy thu lệ phí trước bạ đối với các lần chuyển dịch khác trước đó, nếu có).
Việc xử lý không truy thu lệ phí trước bạ nêu tại điểm này, chỉ giải quyết đối với các trường hợp hợp thức hoá quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị quy định tại Nghị định số 60/CP và Nghị định số 45/CP của Chính phủ. Các trường hợp khác vẫn được thực hiện theo Thông tư số 19 TC/TCT ngày 16/3/1995 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 193/CP ngày 29/12/1994.
Ngay trong ngày nhận được tờ khai lệ phí trước bạ kèm theo hồ sơ tài sản của chủ tài sản gửi đến, Cơ quan Thuế phải kiểm tra, tính toán và thông báo cho chủ tài sản biết về số lệ phí trước bạ phải nộp và thời hạn phải nộp (theo mẫu quy định). Căn cứ vào thông báo của cơ quan Thuế, chủ tài sản trực tiếp nộp tiền lệ phí trước bạ vào Kho bạc Nhà nước. Đối với những trường hợp phức tạp phải kiểm tra thì trong thời hạn tối đa 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan Thuế trực tiếp nhận hồ sơ kê khai lệ phí trước bạ phải thông báo bằng văn bản cho người kê khai kết quả và lý do của việc giải quyết.
Trong trường hợp, cơ quan Thuế đã thu lệ phí trước bạ, nhưng không được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thì người nộp lệ phí trước bạ làm đơn đề nghị, nêu rõ lý do (có ý kiến của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản), kèm theo chứng từ nộp tiền lệ phí trước bạ (bản chính) gửi cho cơ quan thuế đã tính thu lệ phí trước bạ để được hoàn trả lại số tiền lệ phí trước bạ đã thực nộp. Cơ quan Thuế trực tiếp tính thu lệ phí trước bạ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, thủ tục và phối hợp với cơ quan Tài chính cùng cấp để giải quyết hoàn trả tiền lệ phí trước bạ đã nộp trong thời hạn (30) ngày kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ xin hoàn trả. Riêng trường hợp do người nộp lệ phí trước bạ kê khai hoặc xuất trình cho cơ quan Thuế hồ sơ không đúng sư thật (kể cả do bên giao, nhận tài sản tự huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng) thì không được hoàn trả tiền lệ phí trước bạ đã nộp.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký, bãi bỏ các quy định về lệ phí trước bạ của Bộ Tài chính trái với Thông tư này. Các quy định khác về lệ phí trước bạ vẫn thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 19 TC/TCT ngày 16/3/1995, Thông tư số 42 TC/TCT ngày 1/6/1995, Thông tư số 93 TC/TCT ngày 21/12/1995, Thông tư số 47 TC/TCT ngày 19/8/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 193/CP ngày 29/12/1994 của Chính phủ quy định về lệ phí trước bạ.
Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc, đề nghị các Bộ, ngành, địa phương phản ảnh kịp thời về Bộ Tài chính để nghiên cứu hướng dẫn bổ sung.
|
Vũ Mộng Giao (Đã Ký) |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.