BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2481/KH-BNN-KTHT |
Hà Nội, ngày 30 tháng 08 năm 2011 |
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG NÔNG NGHIỆP NĂM 2012
Thực hiện công văn số 3194/BKHĐT-HTX của Bộ Kế hoạch và Đầu tư V/v Hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể năm 2012, Bộ Nông nghiệp và PTNT xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp năm 2012 như sau:
1.1. Bộ Nông nghiệp và PTNT:
Tích cực tham gia nghiên cứu sửa đổi Luật Hợp tác xã để chuẩn bị trình Quốc hội; tham gia Đề án tổng kết 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể (2006 - 2010) và kiến nghị Chương trình phát triển kinh tế tập thể 5 năm (2011-2015) do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì. Bộ đã phối hợp với các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xây dựng Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13 tháng 4 năm 2011 Hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Trong đó có nội dung về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn. Bộ cũng có kế hoạch thành lập ban chỉ đạo đổi mới kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp do Cục Kinh tế hợp tác và PTNT làm thường trực với sự tham gia của các Tổng cục, các viện, trường thuộc Bộ để thống nhất chỉ đạo đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác đạt hiệu quả cao.
Ban hành văn bản chỉ đạo các địa phương về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp theo Quyết định số 317/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong 6 tháng đầu năm 2011, các địa phương đã tích cực triển khai công tác chuẩn bị (xây dựng kế hoạch, dự toán, chương trình …) để thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX nông nghiệp theo Quyết định số 317/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Một số tỉnh (Hòa Bình, Nghệ An, …) đã mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn.
Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các HTX thực hiện tốt công tác quản lý thông qua tổ chức đại hội xã viên và xây dựng kế hoạch trung hạn trong các HTX.
1.2. Các địa phương:
Nhiều tỉnh đã xây dựng đề án, kế hoạch và triển khai hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể tại địa phương giai đoạn 2011 - 2015 như Nghệ An, Bình Thuận, Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh … và đang triển khai năm đầu tiên thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2011 - 2015.
Nhiều địa phương đã tổ chức xây dựng các mô hình điểm về kinh tế tập thể. Trong đó các mô hình HTX tổ hợp tác tại 11 xã thí điểm mô hình nông thôn mới của Ban Bí thư có triển vọng trở thành các mô hình kinh tế tập thể có hiệu quả.
Hệ thống quản lý nhà nước về phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp từng bước khẳng định được vị trí, vai trò của mình ở Trung ương cũng như địa phương, đặc biệt trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới. Nhiều Chi cục Phát triển nông thôn đã tham mưu cho Chính quyền địa phương ban hành các cơ chế, chính sách quan trọng, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế tập thể. Các kế hoạch đề ra trong việc chỉ đạo, xây dựng mô hình … đối với khu vực kinh tế tập thể trong nông nghiệp đều được hoàn thành. Trình độ đội ngũ cán bộ của cả hệ thống từ trung ương đến địa phương đã từng bước được nâng lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
- Đến hết 6 tháng đầu năm 2011, số lượng tổ hợp tác nông lâm thủy sản ước đạt 125.000 tổ, tăng trên 5.000 tổ so với năm 2010. Các tổ hợp tác phát triển đa dạng, xuất hiện trong mọi lĩnh vực trong nông nghiệp, nông thôn để hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, đáp ứng và khắc phục được một số mặt yếu kém của kinh tế hộ như thiếu vốn, công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất; tăng sức cạnh tranh thị trường. Đồng thời phát huy tinh thần tương thân, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất, đời sống. Nhiều loại hình tổ hợp tác phát triển mạnh ở các địa phương như tổ sản xuất giống lúa cộng đồng (ở Long An, An Giang, Đồng Tháp …), câu lạc bộ năng suất cao (ở Đồng Nai), tổ đoàn kết khai thác hải sản trên biển (ở Bình Định, Quảng Nam, …) …
- Về hợp tác xã: Đến hết 6 tháng đầu năm 2011, cả nước có 9.550 HTX nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản. Các HTX phát triển đa dạng xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và nghề muối. Trong đó thành lập mới 57 HTX và giải thể 16 HTX. Các HTX đang hoạt động tiếp tục có chuyển biến tích cực.
Đến nay, cả nước có 82% số HTX làm dịch vụ thủy lợi; 53% số HTX làm dịch vụ cung ứng vật tư, phân bón; 66% số HTX làm dịch vụ khuyến nông; 31% số HTX nông nghiệp làm dịch vụ điện; 8,5% số HTX tổ chức tiêu thụ sản phẩm; … Nhiều HTX khá đang có xu hướng mở mang các ngành nghề dịch vụ mới theo mô hình HTX nông nghiệp đa chức năng, cung ứng nước sạch (13%); vệ sinh môi trường (10%). Về chất lượng hoạt động, nhiều HTX đã đổi mới, thực hiện tốt các dịch vụ phục vụ kinh tế xã viên theo hướng hạ giá thành và nâng cao chất lượng dịch vụ; góp phần tạo nhiều việc làm.
Các HTX mới thành lập phát triển kinh doanh dịch vụ theo chiều sâu, tập trung vào những dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, liên kết với các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác để thực hiện cung ứng dịch vụ cho xã viên.
Về tổ chức, quản lý, nhìn chung đội ngũ cán bộ HTX có tâm huyết và làm việc vì lợi ích của HTX và cộng đồng. Tại các HTX khá, giỏi hiện nay, cán bộ là nhân tố quan trọng đóng góp cho thành công của HTX trong cơ chế mới.
Các HTX đã phối hợp với chính quyền địa phương tích cực thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn như chính sách dồn điền đổi thửa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, xây dựng nông thôn mới … góp phần tích cực phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
3. Hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
3.1. Hạn chế, yếu kém
- Các tổ hợp tác phát triển còn mang tính tự phát, tổ chức thiếu chặt chẽ nên gặp nhiều khó khăn trong giao dịch kinh tế, hưởng các chính sách của Nhà nước và giải quyết, xử lý các tranh chấp trong nội bộ tổ, giữa tổ hợp tác với các thành phần kinh tế khác. Tỷ lệ tổ hợp tác có chứng thực tại UBND xã thấp, khoảng 20%. Hầu hết cán bộ tổ hợp tác chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về quản lý kinh doanh.
- Các HTX phát triển không đồng đều giữa các vùng. Nhiều nơi có ít HTX (vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên) gây khó khăn trong hỗ trợ kinh tế hộ nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường.
- Tính hình thức của HTX (về xã viên, về tài sản) trong chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã chưa được khắc phục căn bản, nhiều HTX có nghị quyết về góp vốn điều lệ nhưng vẫn chưa thu đủ vốn điều lệ. Nhiều HTX nông nghiệp chuyển đổi (tỉnh Thái Bình, Nam Định, …) chỉ có cán bộ góp vốn điều lệ (vốn trách nhiệm). Nhiều HTX tồn tại hình thức chưa chuyển đổi hoặc giải thể. Nhiều HTX tổ chức đại hội xã viên hàng năm chưa đúng thời hạn quy định.
- Nhiều HTX quy mô nhỏ, tài sản ít, cũ nát lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp. Chất lượng dịch vụ của HTX chưa cao, chưa có sức cạnh tranh trên thị trường, chưa có sức hấp dẫn và lôi cuốn xã viên. Đa số các HTX mới chỉ thực hiện các dịch vụ có tính độc quyền, những HTX có thực hiện các dịch vụ có tính cạnh tranh cao còn thấp (chỉ có 8,5% số HTX thực hiện dịch vụ tiêu thụ nông sản …) và cũng chưa nhân rộng được. Còn trên 20% số HTX yếu kém.
- Công tác quản lý tài chính, kế toán của nhiều HTX chưa chặt chẽ, không đúng theo quy định. Công nợ trong HTX chậm được xử lý, nợ mới phát sinh đã làm cản trở sự phát triển của HTX. Chế độ báo cáo định kỳ tới các cơ quan chức năng chưa đầy đủ.
- Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn hạn chế về trình độ, năng lực, làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm; không an tâm, ổn định làm việc lâu dài trong HTX. Đa số chưa đáp ứng yêu cầu công tác. Hiện nay có tới 28% chủ nhiệm HTX có trình độ văn hóa cấp 1, 37% cấp 2. Ngoài ra, tình trạng cán bộ chủ chốt HTX chuyển sang làm công tác chính quyền để có chế độ ổn định hơn diễn ra khá phổ biến. Tình hình này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của HTX.
3.2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém
a) Về công tác tuyên truyền giáo dục: Trong các đề án, chương trình phát triển kinh tế tập thể của nhiều địa phương, giải pháp tuyên truyền, giáo dục chiếm vị trí quan trọng nhưng không gắn liền với kinh phí. Do đó việc thực hiện mang tính tự phát tùy theo nguồn kinh phí được bố trí hàng năm ở những tỉnh bố trí được kinh phí, chưa có chiến lược mang tính dài hạn.
b) Về chính sách: Các chính sách khuyến khích phát triển HTX được ban hành ưu đãi hơn so với các đối tượng khác. Tuy nhiên chủ yếu mới thực hiện được chính sách hỗ trợ thành lập mới và đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX (hàng năm Chính phủ hỗ trợ từ 30-40 tỷ đồng), miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Các chính sách khác kết quả thực hiện còn hạn chế. Bản thân các HTX có đất cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do gặp khó khăn về thủ tục và chi phí làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Nguyên nhân chủ yếu do việc thực hiện được phân cấp cho các địa phương, trong khi nguồn lực tại các địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
c) Công tác chỉ đạo
- Một số địa phương, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành chưa chủ động tham mưu cho lãnh đạo tỉnh triển khai đầy đủ các nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế tập thể trong nông nghiệp còn yếu về năng lực và trình độ nên chất lượng tham mưu văn bản chính sách và tính chủ động còn hạn chế. Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức, học tập tại chỗ để nâng cao trình độ còn ít được quan tâm thường xuyên. Bên cạnh đó, ở nhiều nơi, chính quyền chưa thực sự quan tâm đúng mức tới lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, hoặc can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của HTX.
- Sự phối hợp của các ngành, các cấp, các đoàn thể ở địa phương trong việc hướng dẫn, hỗ trợ HTX thiếu chặt chẽ còn hạn chế. Việc tổng kết và xây dựng các điển hình, mô hình HTX còn chậm và mang tính hình thức. Sự phối hợp giữa các cấp trong công tác tổng hợp, cập nhật cơ sở dữ liệu, báo cáo để phục vụ cho công tác kế hoạch và chỉ đạo của ngành còn rất bất cập và hạn chế; chưa hình thành được hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ, kịp thời, thực tế.
- Nguồn kinh phí sự nghiệp từ ngân sách của cả cấp trung ương lẫn các địa phương cho hoạt động chỉ đạo, quản lý nhà nước về kinh tế tập thể trong nông nghiệp hàng năm cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn rất hạn chế.
II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG NÔNG NGHIỆP NĂM 2012
1. Những thuận lợi và khó khăn chính
1.1. Thuận lợi:
- Sự quan tâm của Đảng, Chính phủ cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới đã tạo điều kiện và có cơ hội để tăng thêm nguồn lực cho thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể.
- Hệ thống tổ chức, bộ máy của toàn ngành từ Trung ương đến địa phương ngày càng hoàn thiện và được tăng cường về năng lực tạo điều kiện thuận lợi cho ngành hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
1.2. Khó khăn, thách thức:
Nhiều địa phương, lực lượng cán bộ quản lý nhà nước chuyên ngành về kinh tế tập thể trong nông nghiệp còn thiếu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế. Kinh phí hoạt động từ ngân sách cho khu vực kinh tế tập thể thấp, nhiều Chi cục không được bố trí ngân sách nghiệp vụ phải trích từ kinh phí chi thường xuyên nên đã làm hạn chế trong công tác chỉ đạo.
Những tồn tại, hạn chế của khu vực kinh tế tập thể trong nông nghiệp còn nhiều và chưa được khắc phục căn bản.
2. Nhiệm vụ thực hiện năm 2012
2.1. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các chủ trương, chính sách, các điển hình về kinh tế tập thể để nâng cao nhận thức về HTX, tổ hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn. Công tác thông tin tuyên truyền cần được thực hiện thường xuyên và có sự tham gia của nhiều cơ quan, nhất là các cơ quan thông tin đại chúng.
2.2. Tổ chức tập huấn, đào tạo hàng năm cho cán bộ quản lý nhà nước (Chi cục PTNT, Phòng nông nghiệp huyện), cán bộ HTX, tổ hợp tác để nâng cao năng lực cho bộ máy quản lý nhà nước, cập nhật kiến thức mới về quản lý, thị trường, chính sách đối với kinh tế tập thể. Trong đó, Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trì xây dựng tài liệu tập huấn về HTX, tổ hợp tác và tổ chức tập huấn cho giáo viên, cán bộ Chi cục PTNT các tỉnh. Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức tập huấn cho cán bộ HTX, tổ hợp tác của tỉnh.
2.3. Hỗ trợ thành lập mới HTX, tổ hợp tác: Bên cạnh các HTX, tổ hợp tác có đăng ký hỗ trợ thành lập mới, các địa phương cần xác định những địa bàn trọng điểm để chỉ đạo vận động, thuyết phục hình thành các tổ chức kinh tế tập thể.
2.4. Củng cố, đổi mới các HTX, tổ hợp tác hiện có nhằm phát huy nội lực của HTX, tổ hợp tác. Trước mắt cần phân loại các HTX, tổ hợp tác để có giải pháp phù hợp. Đối với các HTX, tổ hợp tác yếu kém cần tiếp tục củng cố đảm bảo theo đúng bản chất của tổ chức kinh tế tập thể. Những HTX, tổ hợp tác khá cần đổi mới theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy tốt vai trò của mình trong việc hỗ trợ kinh tế xã viên.
2.5. Hỗ trợ xây dựng các mô hình HTX, tổ hợp tác: Các địa phương cần lựa chọn những mô hình có tính tiêu biểu, đặc trưng của địa phương theo từng ngành hàng, từng vùng miền để chỉ đạo điểm sau đó nhân rộng trên toàn tỉnh. Đồng thời cần gắn kết việc xây dựng mô hình kinh tế tập thể với các chương trình dự án đầu tư để khai thác, quản lý có hiệu quả các công trình như hệ thống thủy lợi, nước sạch ….
3. Giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp năm 2012
3.1. Sửa đổi Luật Hợp tác xã, cơ chế chính sách đối với HTX nông nghiệp
3.2. Bố trí ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ (có biểu chi tiết gửi kèm)
a) Ngân sách cho Bộ Nông nghiệp và PTNT
Nội dung |
Số tiền (tr.đ) |
Xây dựng bài giảng về kinh tế tập thể trong nông nghiệp |
1.800 |
Bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn cán bộ quản lý nhà nước cấp tỉnh, huyện về kinh tế tập thể trong nông nghiệp |
650 |
Bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn giảng viên địa phương về kinh tế tập thể trong nông nghiệp |
550 |
Tổng cộng |
3.000 |
b) Ngân sách cho các địa phương: Theo kế hoạch ngân sách hỗ trợ chung đối với các loại hình kinh tế tập thể do các địa phương báo cáo trực tiếp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3.3. Công tác chỉ đạo
a) Bộ Nông nghiệp và PTNT: Tăng cường công tác chỉ đạo đối với kinh tế tập thể trong nông nghiệp; thường xuyên có các văn bản đôn đốc, chỉ đạo; tổ chức các buổi tọa đàm; thực hiện đánh giá định kỳ và rút kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp.
b) Các địa phương
- Tăng cường kiểm tra tình hình thực hiện cơ chế, chính sách đối với kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Kết thúc mỗi đợt kiểm tra phải có kết luận, thông báo và đề xuất phương hướng giải quyết đối với những tồn tại của kinh tế tập thể (nếu có), thông báo với các HTX, tổ hợp tác và các cơ quan liên quan có hướng giải quyết.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho các HTX, tổ hợp tác mở rộng quy mô; thành lập liên hiệp HTX; liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, với nhà đầu tư nước ngoài.
- Xử lý những tồn tại trong các HTX về xã viên, quyền sở hữu trong HTX, nợ tồn đọng; xử lý dứt điểm các HTX đã ngừng hoạt động, định hướng giải quyết đối với các HTX hoạt động kém hiệu quả.
Trên đây là kế hoạch phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp năm 2012, Bộ Nông nghiệp và PTNT báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp.
Nơi nhận: |
KT.
BỘ TRƯỞNG |
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2011 VÀ KẾ HOẠCH HỖ
TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2012 CỦA BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
(Kèm theo Kế hoạch số 2481/KH-BNN-KTHT ngày 30 tháng 8 năm 2011)
STT |
Nội dung hỗ trợ |
Đơn vị |
Thực hiện năm 2010 |
TH 6 tháng năm 2011 |
Năm 2011 |
Ước TH giai đoạn 2007-2011 |
KH năm 2012 |
|
Kế hoạch |
Ước TH |
|||||||
I |
Xây dựng bài giảng về kinh tế tập thể trong nông nghiệp |
tr.đ |
0 |
0 |
0 |
0 |
|
1.800 |
II |
Hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng |
|
|
|
|
|
|
1.200 |
1 |
Bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn |
|
|
|
|
|
|
|
|
- Cán bộ quản lý nhà nước cấp tỉnh, huyện về kinh tế tập thể trong nông nghiệp (3 lớp, 3 vùng) |
người |
0 |
0 |
0 |
0 |
|
200 |
|
Tổng kinh phí hỗ trợ |
tr.đ |
0 |
0 |
0 |
0 |
|
650 |
|
- Giảng viên địa phương về kinh tế tập thể trong nông nghiệp (3 lớp, 3 vùng) |
người |
0 |
0 |
0 |
0 |
|
200 |
|
Tổng kinh phí hỗ trợ |
tr.đ |
0 |
0 |
0 |
0 |
|
550 |
2 |
Đào tạo |
|
0 |
0 |
0 |
0 |
|
0 |
III |
Tổng cộng |
tr.đ |
0 |
0 |
0 |
0 |
|
3.000 |
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.