Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đây được gọi là " các bên ký kết".
Nhận thấy rằng, việc khuyến khích, bảo hộ và tạo những điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư của các nhà đầu tư của một bên ký kết trên lãnh thổ của Bên ký kết kia trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi, nhằm mục đích phát triển sự hợp tác kinh tế giữa hai Quốc gia.
Đã thoả thuận như sau:
Với mục đích của Hiệp định này:
1. Thuật ngữ "đầu tư" nghĩa là mọi loại tài sản được đầu tư bởi các nhà đầu tư của một Bên ký kết trên lãnh thổ Bên ký kết kia phù hợp với luật và quy định của Bên ký kết đó, bao gồm chủ yếu:
a. Sở hữu động sản và bất động sản và các quyền sở hữu tài sản khác;
b. Các cổ phần của công ty hay các lợi ích khác của công ty đó;
c. Khiếu nại về tiền hoặc về bất kỳ sự thực hiện nào có giá trị kinh tế;
d. Bản quyền, quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết và quy trình công nghệ;
e. Các tô nhượng theo luật, bao gồm tô nhượng về thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
1. Thuật ngữ "nhà đầu tư" nghĩa là:
Về phía Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
a. Bất kỳ thể nhân nào là công dân của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với luật của nước này;
b. Bất kỳ pháp nhân nào được thành lập theo luật và có trụ sở trên lãnh thổ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Về phía Cộng hoà Nhân dân Trung hoa:
a. Các thể nhân có quốc tịch Cộng hoà Nhân dân Trung hoa.
b. Các thực thể kinh tế được thành lập theo luật của Cộng hoà Nhân dân Trung hoa, và có trụ sở trên lãnh thổ Cộng hoà Nhân dân Trung hoa.
1. hợp pháp khác.
2. Mỗi Bên ký kết sẽ giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để làm visa và cấp giấy phép hoạt động cho công dân của Bên ký kết kia trên lãnh thổ của mình đối với những hoạt động liên quan đến đầu tư đó.
2. Sự đối xử và bảo hộ như nêu ở khoản (1) của Điều này sẽ không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử đối với những đầu tư và các hoạt động liên quan đến đầu tư của các nhà đầu tư của nước thứ ba.
3. Sự đối xử và bảo hộ như nêu ở khoản (1) và (2) của Điều này không bao gồm bất kỳ sự đối xử ưu đãi nào của Bên ký kết kia dành cho những đầu tư của các nhà đầu tư của nước đầu tư thứ ba trên cơ sở liên minh thuế quan, khu vực thương mại tự do, liên minh kinh tế, hiệp định tránh đánh thuế trùng hoặc mậu dịch biên giới.
a. Vì lợi ích công cộng;
b. Theo thủ tục pháp luật trong nước;
c. Không phân biệt đối xử;
d. Phải bồi thường.
1. Việc bồi thường nêu ở khoản 1 (d) của Điều này sẽ tương đương với giá trị của khoản đầu tư bị tước đoạt vào thời điểm việc tước đoạt quyền sở hữu được công bố, và bằng đồng tiền tự do chuyển đổi và được tự do chuyển ra nước ngoài. Việc bồi thường được thanh toán không chậm trễ nếu không có lý do chính đáng.
2. Nhà đầu tư của một Bên ký kết trên lãnh thổ của Bên ký kết kia bị thiệt hại về những đầu tư của họ do chiến tranh, tình trạng khẩn cấp quốc gia, nổi dậy, bạo loạn hoặc các sự kiện tương tự, sẽ được Bên ký kết đó đối xử không kém phần thuận lợi hơn so với nhà đầu tư của nước đầu tư thứ ba, nếu Bên ký kết đó áp dụng các biện pháp tương ứng.
a. Lợi nhuận, lãi cổ phần, lãi và thu nhập hợp pháp khác;
b. Các khoản thu từ thanh lý toàn bộ hay từng phần của những đầu tư;
c. Các khoản thanh toán theo hiệp định vay nợ liên quan đến đầu tư;
d. Tiền bản quyền nêu ở khoản 1 (d) của Điều 1;
e. Các khoản thanh toán về giúp đỡ kỹ thuật hoặc phí dịch vụ kỹ thuật, phí quản lý;
f. Các khoản thanh toán về các dự án ký kết liên quan đến đầu tư;
g. Các thu nhập liên quan đến việc đầu tư của công dân Bên ký kết kia làm việc trên lãnh thổ của bên ký kết này.
2. Việc chuyển những khoản thanh toán như đã nêu ở trên sẽ được tính theo tỷ giá hối đoái chính thức của Bên ký kết tiếp nhận đầu tư vào ngày chuyển.
2. Nếu vụ tranh chấp không giải quyết được trong vòng 6 tháng, thì theo yêu cầu của một trong các bên ký kết, sẽ đưa vụ tranh chấp ra Toà án trọng tài ad-hoc.
3. Toà án trọng tài ad-hoc gồm có 3 trọng tài viên. Trong thời gian 2 tháng kể từ ngày một trong các bên ký kết nhận được thông báo bằng văn bản về yêu cầu trọng tài từ Bên ký kết kia, mỗi Bên ký kết sẽ chỉ định một trọng tài viên. Hai trọng tài viên này, trong thời gian 2 tháng sẽ cùng chọn một trọng tài thứ ba là công dân của một nước thứ ba có quan hệ ngoại giao với cả hai bên ký kết. Trọng tài viên thứ ba này sẽ được hai Bên ký kết chỉ định làm Chủ tịch Toà án trọng tài.
4. Nếu toà án trọng tài không thành lập được trong thời gian 4 tháng kể từ ngày nhận thông báo bằng văn bản về yêu cầu trọng tài từ Bên ký kết kia, một trong các Bên ký kết, nếu không có các thoả thuận nào khác, sẽ mời Chủ tịch Toà án quốc tế chỉ định (các) trọng tài viên chưa chọn được. Nếu Chủ tịch Toà án là quốc tế là công dân của một trong các bên ký kết, hoặc vì lý do nào đó không thể thực hiện được chức năng này, thì thành viên cao cấp tiếp theo của Toà án quốc tế không phải là công dân của một trong các Bên ký kết sẽ được mời để tiến hành sự chỉ định cần thiết.
5. Toà án trọng tài sẽ quy định thủ tục riêng của mình. Toà án trọng tài sẽ phán quyết phù hợp với các điều khoản của hiệp định này và các nguyên tắc cuả luật pháp quốc tế được hai Bên ký kết công nhận.
6. Toà án trọng tài sẽ phán quyết theo đa số phiếu. Phán quyết đó là cuối cùng và bắt buộc đối với hai bên ký kết. Toà án trọng tài ad-hoc, theo yêu cầu của một trong hai Bên ký kết, sẽ giải thích những lý do của phán quyết của mình.
7. Mỗi Bên ký kết sẽ chịu chi phí cho trọng tài viên do mình chỉ định và đại diện của mình trong quá trình tố tụng. Những chi phí cho Chủ tịch và toà án sẽ do hai Bên ký kết cùng chịu bằng nhau.
2. Nếu vụ tranh chấp liên quan đến việc bồi thường do bị tước quyền sở hữu không gải quyết được trong thời gian 6 tháng, một trong hai Bên tranh chấp sẽ có quyền đưa vụ tranh chấp ra toà án có thẩm quyền của Bên ký kết tiếp nhận đầu tư.
3. Nếu vụ tranh chấp liên quan đến việc bồi thường do bị tước quyền sở hữu không giải quyết được trong thời gian 6 tháng, kể từ sau khi tiến hành thương lượng như đã được quy định ở khoản 1 của Điều này, thì theo yêu cầu của một trong hai Bên ký kết sẽ đưa ra toà án trọng tài ad-hoc. Các quy định của khoản này sẽ không áp dụng, nếu nhà đầu tư có liên quan đã chọn thủ tục nêu tại khoản 2 của Điều này.
4. Toà án trọng tài được thành lập cho từng trường hợp theo cách sau: Mỗi Bên của vụ tranh chấp sẽ chỉ định một trọng tài viên, và hai trọng tài viên này sẽ chọn một công dân của nước thứ ba có quan hệ ngoại giao với hai Bên ký kết làm chủ tịch. Hai trọng tài viên đầu tiên được chỉ định trong thời gian 2 tháng, kể từ ngày một trong các bên của vụ tranh chấp gửi thông báo bằng văn bản về trọng tài cho phía bên kia, và Chủ tịch của toà án trọng tài được chọn trong thời gian 4 tháng. Nếu trong thời gian quy định trên, Toà án trọng tài chưa thành lập, thì một trong các bên của vụ tranh chấp có thể mời Tổng thư ký của Trung tâm quốc tế về công ước giải quyết các tranh chấp đầu tư giữa các Quốc gia và Công dân của nước khác ký tại Washington ngày 18/3/1965 để tiến hành sự chỉ định cần thiết.
5. Toà án trọng tài sẽ quy định thủ tục riêng của mình. Tuy nhiên, trong quá trình xác định thủ tục, toà án trọng tài có thể tham khảo các Nguyên tắc Trọng tài của Trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp về đầu tư.
6. Toà án trọng tài sẽ quyết định đa số phiếu. Quyết định này là cuối cùng và bắt buộc đối với các Bên tranh chấp. Cả hai Bên ký kết sẽ cam kết tiến hành quyết định đó phù hợp với luật quốc gia của mỗi bên.
7. quy định của hiệp định này cũng như những nguyên tắc của luật quốc tế được công nhận rộng rãi mà được cả hai Bên thừa nhận.
8. Mỗi Bên tranh chấp sẽ chịu chi phí cho thành viên của toà án trọng tài do mình chỉ định và những người đại diện của mình trong quá trình tố tụng. Chi phí cho Chủ tịch được chỉ định và các chi phí còn lại sẽ do hai bên cùng chịu bằng nhau.
1. Những người đại diện của hai Bên ký kết sẽ tổ chức các cuộc họp thường xuyên với mục đích như sau:
a. Xét xem việc thi hành Hiệp định này;
b. Trao đổi thông tin pháp lý và những cơ hội đầu tư;
c. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc đầu tư;
d. Đưa ra những đề nghị về khuyến khích đầu tư;
e. Nghiên cứu các vấn đề khác liên quan về đầu tư;
1. Khi một trong các Bên ký kết đề nghị có sự thảo luận về bất cứ vấn đề gì của khoản 1 Điều này, Bên ký kết kia sẽ trả lời ngay và cuộc thảo luận sẽ được tổ chức luân phiên ở Bắc kinh và Hà nội.
2. Hiệp định sẽ tiếp tục có hiệu lực, nếu một trong hai Bên ký kết không thông báo bằng văn bản cho bên ký kết kia về việc chấm dứt Hiệp định một năm trước khi kết thúc Hiệp định như nêu ở khoản 1 của Điều này.
3. Sau khi kết thúc thời hạn 10 năm đầu tiên, một trong các Bên ký kết có thể chấm dứt Hiệp định này vào bất cứ lúc nào bằng cách gửi thông báo bằng văn bản trước ít nhất 1 năm cho Bên ký kết kia.
4. Đối với những đầu tư được thực hiện trước ngày kết thúc Hiệp định này, thì những quy định từ Điều 1 đến Điều 11 sẽ tiếp tục có hiệu lực trong thời gian 10 năm tiếp theo kể từ ngày kết thúc.
Những người có tên dưới đây được Chính phủ của các Bên uỷ quyền ký Hiệp định này.
Hiệp định này được làm thành hai bản tại Hà nội ngày tháng 12 năm 1992 bằng tiếng Việt nam, tiếng Trung quốc và tiếng Anh, tất cả các vản bản có giá trị ngang nhau. Trong trường hợp có sự khác nhau về giải thích Hiệp định, sẽ sử dụng văn bản tiếng Anh.
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ |
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ |
BỘ
NGOẠI GIAO |
SAO Y BẢN CHÍNH "Để báo cáo, Để thực hiện". |
Số: 04/LPQT |
Hà Nội, ngày 19 tháng 02 năm 1993 |
Nơi gửi: |
TL.
BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO |
(Ghi chú : Hiệp định này đã được chính phủ nước CHXHCNVN phê duyệt ngày 18 tháng 01 năm 1993).
Ý kiến bạn đọc
Nhấp vào nút tại mỗi ô tìm kiếm.
Màn hình hiện lên như thế này thì bạn bắt đầu nói, hệ thống giới hạn tối đa 10 giây.
Bạn cũng có thể dừng bất kỳ lúc nào để gửi kết quả tìm kiếm ngay bằng cách nhấp vào nút micro đang xoay bên dưới
Để tăng độ chính xác bạn hãy nói không quá nhanh, rõ ràng.